Phân tích quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh không chỉ mang lại cho các em nhiều điều bổ ích trong các bài kiểm tra mà còn là một hành trang nho nhỏ giúp các em hiểu được quan điểm sáng tác của Người để biết cách vận dụng vào viết văn.Dưới đây là bài viết Phân tích quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh, mời các bạn cùng tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Phân tích quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc thưởng thức nghệ thuật và xem đó một lĩnh vực tinh thần quan trọng cho sự phát triển của cách mạng. Người đánh giá cao sự liên kết sâu sắc giữa nhà văn và cuộc sống, xem đó là nguồn cảm hứng để đóng góp vào sứ mệnh chiến đấu và phát triển xã hội. Người nhấn mạnh: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một chiến trường, chúng ta là chiến sĩ trên chiến trường đó.” Hồ Chí Minh chú ý đến đối tượng của nghệ thuật, đặt ra yêu cầu rằng văn chương trong thời kỳ cách mạng phải phục vụ cho đông đảo quần chúng, nhân dân. Tác phẩm văn học cần phản ánh tinh thần dân tộc và thu hút lòng yêu thích của nhân dân. Người chia sẻ kinh nghiệm quan trọng trong hoạt động báo chí và văn chương là việc đặt câu hỏi: Viết cho ai, viết về cái gì? Mục tiêu là gì? Cách viết như thế nào? Người khẳng định rằng tác phẩm văn học cần phải thể hiện tính chân thực, miêu tả đầy đủ và khách quan về cuộc sống cách mạng.
Người nhấn mạnh việc văn chương phải biết tôn vinh và lan tỏa cái đẹp, đồng thời chỉ trích và lên án cái xấu trong cuộc sống. Bác Hồ cũng nhấn mạnh đến việc nhà văn cần phải chú ý đến hình thức của tác phẩm, cách hành văn sao cho tránh sự phức tạp và máy móc. Theo Người, tác phẩm văn học cần phải phản ánh rõ tinh thần dân tộc của nhân dân. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ tự nhận là nhà văn hay nhà thơ, Người chỉ nhận mình là người yêu nghệ thuật, nhưng với hoàn cảnh và nhiệm vụ cách mạng, cùng với tài năng nghệ thuật thiên bẩm, Người đã tạo ra nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị. Trong các tác phẩm của Người quan điểm sáng tạo cũng như tư tưởng nghệ thuật luôn được nêu bật.
2. Phân tích quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh hay nhất:
Hồ Chí Minh – lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đã để lại một di sản văn học phong phú bao gồm nhiều thể loại khác nhau. Khi nói đến hoạt động nghệ thuật và văn học của Hồ Chí Minh, người ta thường nghĩ ngay đến quan điểm sáng tạo trong nghệ thuật của Người.
Bác coi văn học nghệ thuật như một loại vũ khí sắc bén, là một mặt trận trong công cuộc giải phóng dân tộc. Trong Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”, Bác viết: “Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong.” Người đã biến nghệ thuật và văn chương thành mặt trận chống lại kẻ thù. Người viết nhiều tác phẩm chính luận, xuất bản trên các tờ báo như Người cùng khổ, Đời sống thợ thuyền, đặc biệt nổi bật là “Bản án chế độ Thực dân Pháp”… những tác phẩm này mang đậm tính đấu tranh, lên án sự tàn bạo của chính quyền thực dân với các nước thuộc địa, thông qua đó, Hồ Chí Minh kêu gọi tinh thần đoàn kết và đấu tranh của nhân dân.
Các tác phẩm như Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Không có gì quý hơn độc lập tự do là những tài liệu lịch sử quan trọng, được viết vào những thời điểm cam go của dân tộc. Đây là những tác phẩm chính trị đanh thép, hùng sảng làm hàng triệu trái tim người Việt yêu nước sôi sục. Những tác phẩm tri thức này có tác dụng động viên tinh thần yêu nước của nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn đặc biệt giữ gìn tính chân thật, bản sắc dân tộc trong sáng tác nghệ thuật và văn học. Làm thế nào để diễn đạt một cách sống động, chân thực về cuộc sống cách mạng, phải làm thế nào để thể hiện đúng bản chất dân tộc là những điều quan trọng. Ở phương diện nghệ thuật, tác phẩm của Bác luôn chú trọng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, viết một cách giản dị, không phô trương, nhưng vẫn khẳng định tính sáng tạo của nghệ sĩ.
Với những tác phẩm thơ của Bác, chúng ta thấy một phong cách riêng, sâu sắc và tinh tế, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam. Có những loại thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất dân gian như Dân cày, Binh lính, Ca sợi chỉ… nhằm tuyên truyền cách mạng. Cũng có những tác phẩm thơ được viết dựa trên cảm hứng lãng mạn, như những bài thơ tứ tuyệt cổ viết bằng chữ Hán, điển hình là Nhật ký trong tù.
Nhật ký trong tù là tập thơ tái hiện chân thật, chi tiết về sự tàn bạo của chế độ Tưởng Giới Thạch và xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, với ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cuốn Nhật ký bằng thơ này chủ yếu ghi lại cảm xúc, tâm trạng và suy nghĩ của Bác, từ đó chúng ta có thể cảm nhận được một phần nào tâm hồn và nhân cách cao đẹp của Bác. Đó là tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên và con người, là sự lạc quan trước mọi thử thách và là một con người có ý chí phi thường, luôn hướng về quê hương và đất nước.
Khi sáng tác, Bác luôn đặt ra các câu hỏi quan trọng: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào? Mọi sáng tác của Bác luôn xuất phát từ mục đích và đối tượng độc giả.
Việc xây dựng nội dung và hình thức tác phẩm theo nhiều cách khác nhau tuy nhiên xuyên suốt là tinh thần yêu nước. Điều này làm cho các tác phẩm của Bác luôn mang đầy tri thức, nội dung sâu sắc và hình thức nghệ thuật sống động.
3. Phân tích quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh chọn lọc:
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ cách mạng và nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, không chỉ có những chỉ đạo sắc bén trên mặt trận quân sự mà còn đóng vai trò quan trọng trên mặt trận văn chương. Người để lại một kho tàng các tác phẩm đặc sắc, ấn tượng. Người sử dụng văn chương và thơ làm vũ khí, nhận thức rằng nghệ thuật cũng là một mặt trận cần phải đấu tranh. Nghệ thuật còn là công cụ hiệu quả để truyền đạt tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng vô sản.
Nhiệm vụ và lý tưởng cách mạng là mục tiêu sáng tác lớn nhất và xuyên suốt trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh. Trước khi bắt đầu viết, Bác thường đặt ra câu hỏi quan trọng: Viết để làm gì? Viết cho ai? Viết như thế nào? Mỗi tác phẩm của Bác đều phục vụ một mục đích cụ thể, một đối tượng cụ thể, do đó, văn phong của Bác linh hoạt và đa dạng, mang lại ý nghĩa sâu sắc và mục đích rõ ràng.
Theo sự biến động của cuộc đời, sự nghiệp cách mạng, cũng như tùy thuộc vào hoàn cảnh, những tác phẩm của Người cũng có sự biến đổi để phản ánh tư tưởng, thời cuộc một cách khách quan nhất. Bác luôn linh hoạt thích nghi. Điều này tạo ra đặc điểm phong phú và đa dạng trong sự nghiệp văn học của Bác.
Thời kỳ đầu thế kỷ XX, khi Bác đang hoạt động cách mạng tại Thủ đô Pari của nước Pháp, Người viết một số tác phẩm bằng tiếng Pháp như “Vi hành”, “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”…. Những tác phẩm này được viết theo phong cách văn xuôi hiện đại châu Âu, với mục đích tố cáo âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và sự hèn hạ của triều đình phong kiến nhà Nguyễn tay sai bán nước. Đối tượng mà Bác hướng đến là nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình và những người nước ngoài biết tiếng Pháp. Những tác phẩm này đã gây tiếng vang lớn trong dư luận và tạo ảnh hưởng lớn đối với quần chúng.
Văn chính luận là phong cách chủ đạo của Hồ Chí Minh. Những tác phẩm như “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập”, “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” mang đậm lối lập luận sắc bén, dẫn chứng cụ thể, thể hiện sức thuyết phục sâu sắc.
Không chỉ dừng lại ở đó, cần nhắc đến thơ chiếm một phần quan trọng trong sự sáng tác của Bác. Bác sáng tác thơ bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ và nhiều thể loại khác nhau như tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát… Trong số này, “Nhật ký trong tù” là một tác phẩm nổi bật, ghi lại chi tiết diễn biến 14 tháng Bác sống trong ngục tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch từ 1942 đến 1943. Đây là một tài liệu lịch sử quý báu và đồng thời là một tác phẩm văn chương lớn, thể hiện tâm hồn và nhân cách cao đẹp của Bác. Mỗi khi nhắc đến “Nhật ký trong tù”, người ta có cái nhìn đa chiều về đời sống tinh thần và tư tưởng của Người.
Ngoài ra, trong quá trình kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp, Bác sáng tác nhiều bài ca dưới hình thức văn vần để kích thích ý thức của quần chúng: “Bài ca binh lính”, “Bài ca sợi chỉ”, “Bài ca đoàn kết”… Bác viết một cách dễ hiểu, dễ nhớ để tất cả quần chúng nhân dân đều có thể tiếp thu. Bác từng phê phán cách viết cầu kì không phù hợp với quần chúng nhân dân.
Văn chương không chỉ là một phần không thể thiếu của cuộc sống và hiện thực của toàn dân tộc, mà còn là nguồn thi hứng bất tận đối với các nhà thơ. Cùng với văn chương, Bác để lại nhiều bài học kinh nghiệm và ý nghĩa sâu sắc, tạo ra những tác phẩm có giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật, thể hiện sự đam mê và tận tâm trong sáng tác.