Tản Đà là một nhà văn có sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại, đồng thời cũng là một trong những nhân vật tiêu biểu của văn học Việt Nam. Trong bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi phân tích những nét độc đáo, mới lạ trong bài thơ Hầu Trời của Tản Đà.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích những nét độc đáo, mới lạ trong bài thơ Hầu Trời:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm.
– Dẫn dắt vấn đề cần phân tích: những nét độc đáo, mới lạ trong bài thơ Hầu Trời.
1.2. Thân bài:
– Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
– Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
+ Trong đoạn thơ trên, chúng ta có thể thấy rõ sự tự tin và hào hứng của thi nhân khi đọc thơ. Ông miêu tả tác phẩm của mình với sự chi tiết và tường tận, thể hiện niềm đam mê và khát khao cháy bỏng với văn chương. Tuy nhiên, thi nhân cũng có phần tự đắc và có thể sẽ khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu nếu không được thể hiện một cách tế nhị và đúng mực.
+ Ngoài ra, đoạn thơ này còn cho thấy sự táo bạo và dám nghĩ dám làm của thi nhân. Ông không ngại khoe tài và tìm đến trời để khẳng định sự tài năng của mình. Điều này cũng cho thấy sự quyết tâm, nghị lực và tinh thần phi thường trong việc theo đuổi đam mê và khát khao của mình.
+ Tuy nhiên, ngoài những phẩm chất tích cực kể trên, đoạn thơ cũng cho thấy thi nhân có phần tự cao tự đại và có thể không cảm thông được với người nghe. Chính vì vậy, trong việc tạo dựng tác phẩm và xây dựng hình ảnh của mình, thi nhân cần phải cân nhắc và thể hiện một cách tế nhị, đúng mực và đồng cảm được với người đọc hoặc người nghe.
-> Tóm lại, đoạn thơ trên cho thấy sự tự tin, đam mê và khát khao của một thi nhân với văn chương. Tuy nhiên, để tạo dựng được một hình ảnh tốt và được đông đảo người đọc và người nghe yêu thích, thi nhân cần phải thể hiện một cách tế nhị và đúng mực để có thể gây được ấn tượng và đồng cảm với độc giả.
– Thái độ của người nghe: Họ rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thơ văn là một công việc đòi hỏi sự học hỏi liên tục và sự luyện tập thường xuyên. Bởi vậy, tác giả cũng cần phải tiếp tục nỗ lực học tập và cải thiện kỹ năng của mình để đạt được những thành tựu đáng kể hơn trong tương lai.
+ Thái độ của trời: Trời đã khen ngợi tác phẩm rất nhiệt thành và đánh giá cao về sự xuất sắc của văn phong. Tác giả đã thể hiện được khả năng viết văn trần thuộc hàng hiếm có, đồng thời văn chuẩn và tinh tế như sao băng trên bầu trời đêm. Tuy nhiên, để duy trì được sự xuất sắc này, tác giả cần phải tiếp tục trau dồi kỹ năng viết văn của mình và không ngừng khám phá những cách thức mới để phát triển văn phong.
+ Thái độ của chư tiên: Tác phẩm đã gây được sự xúc động, hâm mộ và tán thưởng từ chư tiên. Điều này cho thấy tác giả đã thành công trong việc truyền tải cảm xúc và tư tưởng của mình đến độc giả. Tuy nhiên, để đạt được điều này, tác giả cũng cần phải có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về văn học, tâm lý học và xã hội học. Chỉ có như vậy, tác giả mới có thể tạo ra những tác phẩm đầy tính nhân văn và ý nghĩa.
+ Tóm lại, cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời. Tuy nhiên, để trở thành một nhà văn xuất sắc, tác giả cần phải có sự nỗ lực học tập liên tục và không ngừng hoàn thiện kỹ năng của mình.
– Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình trong văn chương nhằm thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Tên tác giả xuất hiện trong tác phẩm cũng chính là một cách để khẳng định bản thân.
+ Ngoài việc kể về bản thân, thi nhân còn kể về cuộc sống của mình. Họ sống trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn và bị coi thường trong xã hội. Điều đó khiến cho tình cảm của họ bị bỏ quên và phải tìm kiếm sự an ủi ở những vùng trời xa xôi.
+ Thực tế đó cũng chính là cuộc sống của nhiều nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ. Một cuộc sống khó khăn, không đủ để sống qua ngày, và thường bị coi thường trong xã hội. Tuy nhiên, qua đoạn thơ, tác giả đã truyền tải một tấm lòng chân thành và cảm động về cuộc đời của mình và của nhiều nhà văn, nhà thơ khác.
-> Điều này cũng khiến cho đoạn thơ trở nên đầy cảm hứng và chân thực hơn.
– Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:
+ Trong tác phẩm của Tản Đà, ta có thể thấy rõ sự lãng mạn và đồng thời cũng có một ý thức rõ ràng về trách nhiệm và nghĩa vụ của một con người đối với xã hội và đời sống. Nhiệm vụ truyền bá thiên lương được coi là trách nhiệm trên trời giao cho thi nhân, nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ ràng sự lãng mạn của Tản Đà. Tuy nhiên, ông không hoàn toàn thoát khỏi cuộc sống hiện thực và vẫn giữ được ý thức về trách nhiệm đối với đời sống. Ông muốn đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn cho mọi người.
+ Ngoài ra, trong tác phẩm của Tản Đà, ta còn thấy rõ khát khao của thi nhân được gánh vác việc đời. Khát khao này không chỉ đơn thuần là một cách để tự khẳng định mình trước thời cuộc, mà còn là một cách để thi nhân có thể đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, xã hội.
-> Vì vậy, có thể nói rằng trong thơ Tản Đà, sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đã tạo nên một tác phẩm độc đáo, ấn tượng và có ý nghĩa sâu sắc.
1.3. Kết bài:
Đánh giá khái quát vấn đề phân tích và liên hệ cảm nhận của bản thân.
2. Phân tích những nét độc đáo, mới lạ trong bài thơ Hầu Trời hay nhất:
Tản Đà là một nhà văn có sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại, đồng thời cũng là một trong những nhân vật tiêu biểu của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện cái tôi lãng mạn, bay bổng mà còn ngông nghênh, đầy màu sắc. Những yếu tố đó đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà và Hầu Trời được xem là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của ông.
Để mở đầu cho tác phẩm của mình, Tản Đà đã sử dụng câu thơ đầy bất ngờ và đặc biệt:
“Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.”
Câu thơ đầu tiên làm người đọc cảm thấy băn khoăn và phân vân, liệu đêm qua có thật sự xảy ra hay không. Tuy nhiên, câu thơ tiếp theo đã trả lời cho những câu hỏi đó bằng những từ “thật” lặp lại bốn lần, “thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên”. Điều này giúp nhấn mạnh sự cảm xúc mà Tản Đà đã trải qua trong giấc mơ đêm qua, đó là một trạng thái “sướng lạ lùng”. Tản Đà đã sử dụng kỹ thuật này để dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng của ông, giúp tác phẩm trở nên thú vị và hấp dẫn hơn.
Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà đang buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Tuy nhiên, có lẽ chuyện này dường như hoàn toàn hư cấu và khó có thể tin được. Nhưng bằng cách giải thích dí dỏm, hài hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân. Ông đã viết: “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga/ Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.
Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ Tản Đà hăng say thể hiện bản thân. Ông đã có những bài thơ rất tuyệt vời như:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại.
Trước tài năng của Tản Đà, ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc. Trời đã “lấy làm hay” và “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương) ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn: “Anh ghánh lên đây bán chợ Trời”. Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà.
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng, khí văn hùng mạnh như mây chuyển, êm như gió thoảng, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời, chúng còn cho thấy niềm say mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.
Đoạn thơ này là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà, một nhà thơ vĩ đại của Việt Nam. Trong bài thơ này, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và sự nghiệp của mình.
Một trong những điểm nổi bật nhất trong đoạn thơ này là sự tự tin, kiêu hãnh của Tản Đà về tài năng của mình. Ông ý thấu hiểu rõ giá trị của chính mình và không ngần ngại thể hiện điều đó trước mọi người. Tuy nhiên, đồng thời cũng thấy được sự cô đơn và lạc lõng trong cuộc đời ông khi ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Điều này cũng được chia sẻ bởi những người nghệ sĩ đương thời.
Đoạn thơ này cũng thể hiện sự khó khăn của một nhà văn trong việc trở thành một tác giả nổi tiếng. Tản Đà đã phải vất vả để xuất bản những tác phẩm của mình, phải chi tiêu nhiều chiều như thuê giấy, mực, in và cửa hàng. Những tác phẩm của ông không được đánh giá cao và thậm chí còn rẻ mạt. Tuy nhiên, Tản Đà không bỏ cuộc, ông luôn khát khao được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.
Ngoài ra, đoạn thơ này cũng thể hiện tình cảm của Tản Đà với Trời và các chư tiên. Ông chia sẻ những tâm sự của mình với những người này, than phiền về sự khó khăn trong cuộc sống của một nhà văn. Nhưng sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành, khuyến khích Tản Đà không nản lòng, “Thôi con cứ về mà làm ăn, Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên này cũng là lời tự an ủi chính mình và các nhà văn cùng thời.
Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng và giọng điệu tự nhiên, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi: ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời. Bằng cách này, Tản Đà đã truyền cảm hứng cho những người trẻ sau này, khuyến khích họ đứng lên và tự tin thể hiện bản thân trong cuộc sống.
Tóm lại, đoạn thơ này không chỉ thể hiện sự nghiệp của Tản Đà mà còn là thông điệp sâu sắc về cuộc sống và tình yêu với nghệ thuật. Đoạn thơ này đã để lại dấu ấn không thể phai nhòa trong văn học Việt Nam và trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ sau này.
3. Phân tích những nét độc đáo, mới lạ trong bài thơ Hầu Trời mới nhất:
“Tản Đà – con người của hai thế kỉ”. Tản Đà sinh ra trong một gia đình quan lại phong kiến giữa thời Hán học suy tàn của Trung Quốc và thời Tây học mới bắt đầu nên ông đã trở thành một thi sĩ tràn đầy tài năng và sáng tạo. Tản Đà không theo nghiệp thi thố làm quan mà mưu sinh bằng cách sáng tác thơ ca, viết báo và làm văn. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đều mang dấu ấn của hai thời đại: trung đại và hiện đại.
Thơ văn của Tản Đà có thể được xem là dấu gạch nối giữa hai thế kỉ. Trong đó, bài thơ “Hầu trời” là tác phẩm nổi bật nhất của ông. Bài thơ này thể hiện cái tôi cá nhân phóng túng, tự do tự khẳng định mình bằng cảm hứng lãng mạn nhưng không thoát khỏi hiện thực xã hội. Khác với các nhà thơ trung đại sử dụng thể thơ cũ như: Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát hay song thất lục bát, Tản Đà sử dụng thể thất ngôn trường thiên tự do không bị ràng buộc bởi bất cứ kết cấu nào nên mạch cảm xúc được bộc lộ rất thoải mái, xuyên suốt trong toàn bài.
Bài thơ “Hầu trời” mở đầu bằng bốn câu thơ đầy tò mò và bí ẩn:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.”
Tản Đà khéo léo kết hợp giữa sự thật và hư cấu để tạo nên một câu chuyện độc đáo và rất có duyên. Hai từ phủ định “chẳng” và “không” tạo mối nghi vấn, gợi trí tò mò, bán tín bán nghi nhưng thi sĩ lại khẳng định ngay là câu chuyện có thật bằng bốn từ “thật” được lặp đi lặp lại để củng cố lòng tin độc giả vào sự việc mà nhà thơ sắp kể tạo sự hấp dẫn về việc “Thật được lên tiên-sướng lạ lùng”. Đúng như lời bình của Xuân Diệu “Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau hoàn toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.
Tiếp đến, nhà thơ Tản Đà đã miêu tả cụ thể về những cảm xúc của mình khi được “lên tiên”. Ông cho biết rằng, vào lúc canh ba ông nằm mà không thể ngủ được, do đó ông đã dậy và uống nước ngâm văn để giải tỏa. Khi ra ngoài, ông đã gặp hai nàng tiên và chính họ đã dẫn ông lên tiên để ngâm thơ cho Trời và các chư tiên nghe. Nhờ niềm đam mê và tài năng của mình, Tản Đà đã trở thành một trong những thi nhân được mời lên tiên để ngâm thơ. Ông đã tận dụng cơ hội này để truyền tải thông điệp của mình đến với Trời và các chư tiên.
Bên cạnh đó, Tản Đà cũng là một nhà thơ tự do và thoải mái khẳng định tài năng và cái tôi cá nhân của mình trong văn chương. Ông đã viết những tác phẩm văn thơ đặc sắc như “Khối tình”, “Thần tiên”, “Giấc mộng” và “Lên tám”, được Trời và các chư tiên đánh giá cao là văn chương giàu thay đổi, tuyệt vời và trần thành.
Tuy nhiên, Tản Đà cũng là một người yêu nước sâu sắc và tự hào về quê hương của mình. Trong bài thơ của ông, ta có thể thấy rõ những chi tiết về quê hương của ông như Sông Đà, núi Tản và nước Nam Việt. Điều này chứng tỏ ông là một người có tinh thần tự tôn dân tộc và luôn tự hào về đất nước của mình.
Tác giả bài thơ Tản Đà có cảm hứng chủ đạo là lãng mạn, tuy nhiên, ông không bị quá thăng hoa mà bỏ qua hiện thực cuộc sống. Trong bài thơ của mình, ông không ngại trình bày hoàn cảnh bản thân cũng như những văn sĩ khác đang sống trong hoàn cảnh khó khăn tại thời điểm đó.
Trong bài thơ, Tản Đà miêu tả về hoàn cảnh của mình và của những người nghệ sĩ khác sống trong thời kỳ “văn chương hạ giới rẻ như bèo”. So sánh văn chương với bèo cho thấy giá trị thơ ca không được đánh giá cao, số phận của những người nghệ sĩ như ông cũng như những người khác khó khăn, một thước đất cắm dùi không có, kiếm được đồng lãi rất khó vì giấy người, mực người, thuê người in, làm quanh năm cũng chẳng đủ để sống, và khi đến tuổi già sức yếu, học ngày càng kém, cuộc sống của họ rất bấp bênh và khó khăn.
Tuy nhiên, dù sống trong môi trường khó khăn đó, Tản Đà vẫn không bỏ cuộc mà luôn cố gắng phấn đấu hết sức để trở thành một nhà thơ tài năng trong lĩnh vực văn chương. Tác phẩm của ông “Hầu trời” đã thể hiện được phong cách thơ rất “ngông” của Tản Đà, mang lại sự tự do và thoải mái khi lựa chọn thể thơ thất ngôn trường thiên. Ngôn ngữ gần gũi đời thường ít ước lệ quy phạm mà giàu sức gợi hình gợi cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn, giọng kể bình dân, khôi hài, hóm hỉnh mà có duyên đưa người đọc vào câu chuyện rất tự nhiên, lôi cuốn.
Điều đáng chú ý là, Tản Đà không chỉ miêu tả về hoàn cảnh khó khăn của mình và những người nghệ sĩ khác, ông còn cho thấy sự tích cực và lạc quan vào cuộc sống của những con người chân chính, lương thiện. Tản Đà đã thể hiện những ấn tượng đậm nét về phẩm chất và tài năng của một con người được coi là dấu gạch nối giữa hai thế kỷ, qua đó cho thấy nghệ thuật thơ ca của ông đã trở thành một phần không thể thiếu của văn học Việt Nam.