Hãy cùng tìm hiểu những bài phân tích khổ 2 Tràng giang để làm rõ hơn giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật mà Huy Cận gửi gắm nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ 2 Tràng Giang của Huy Cận :
Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm
Thân bài:
Luận điểm 1: Cảnh bến đò vắng trong nắng chiều
– Cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ nhiều hơn qua hình ảnh lẻ loi giữa không gian lạnh lẽo:
Góc nhìn của nhân vật trữ tình lúc này rộng hơn, rộng hơn khi từ khung cảnh sông Hồng đến không gian bao la của đất trời, đôi bờ. Đó là không gian yên tĩnh, tĩnh lặng: có cảnh (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh quá đạm bạc, nhỏ nhoi (nhỏ, xa, van…)
Từ “thon thả” gợi tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn nhỏ mọc lên giữa sông. Trên những đụn cát nhỏ ấy, lau sậy mọc um tùm, khi có gió thổi, âm thanh phát ra nghe man mác, nghe não nuột.
Có âm thanh, nhưng âm thanh đó phát ra từ “chợ chiều” đã “vắng bóng” mà làng quê đã xa nên không đủ làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
Chỉ một câu thơ mà nhiều sắc thái đã gợi những âm thanh xa xăm, bâng khuâng: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều?”.
– “Đâu tiếng làng xa” có thể là câu hỏi “ở đâu” như niềm mong mỏi, hoài niệm của nhà thơ về một chút sinh hoạt, âm thanh của cuộc sống con người.
Nó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, bởi vì không có gì sống xung quanh đây để xua tan sự cô độc của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm dòng sông.
Luận điểm 2: Tâm trạng của nhà thơ.
– Hai câu thơ tiếp, không gian được mở ra bao la:
+ Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: chiều cao (mặt trời mọc, trời lên), chiều rộng (trời rộng) và chiều dài (sông dài), độ sâu”.
-> Vũ trụ bao la, vô tận còn con người thì quá nhỏ bé, cô đơn.
+ Nhà thơ nhìn lên trời thấy bầu trời “chót vót”:
Cách dùng từ độc đáo bởi nhà thơ không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”.
“Cao” đề cập đến độ cao vật lý của bầu trời và “sâu” không chỉ mô tả độ cao vật lý mà còn mô tả sự kinh ngạc trước không gian đó.
=> Đó là sự bất ngờ trong tâm hồn nhà thơ trước sự vô tận của vũ trụ.
=> Cách dùng từ rất mới vì tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang nhìn bầu trời “cao chót vót” dưới làn nước “sâu thẳm”. Không gian càng rộng lớn thì hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi.
+ Hình ảnh “bến vắng” cùng với âm hưởng man mác của hai từ “vắng” ấy, một lần nữa gợi lên một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của cuộc đời quá nhỏ bé, rất hữu hạn và vũ trụ thì rộng mở vô tận.
=> Không gian càng bao la, vắng lặng bao nhiêu thì hình ảnh con người càng trở nên cô đơn bấy nhiêu. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm cảnh vật.
=> Khổ thơ thứ hai cho ta thấy tâm trạng buồn bã, hoang mang, thất thần trước ngã rẽ của cuộc đời. Nhà thơ cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, lẻ loi của một kiếp người giữa cuộc đời rộng lớn. Đây không phải là nỗi buồn của riêng ông mà là nỗi buồn chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn học nghệ thuật đầu thế kỷ XX.
Kết bài: đánh giá tác giả tác phẩm.
2. Những bài phân tích khổ 2 Tràng Giang hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài phân tích khổ 2 Tràng Giang hay nhất:
Trong phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945, có lẽ say đắm và lãng mạn nhất là Xuân Diệu, say đắm nhất là Hàn Mặc Tử, rồi buồn nhất có lẽ không ai qua được Huy Cận. Nỗi buồn của Huy Cận không phải là nỗi buồn của tình yêu đôi lứa mà là nỗi buồn của cuộc đời, nỗi buồn của một thân phận chìm nổi. Có người đùa rằng trong thời gian mang thai, chắc mẹ Huy Cận buồn lắm nên nhà thơ trẻ sớm mang một nỗi buồn vô tận, đôi mắt luôn ngấn lệ nhớ đời. Cái tài văn chương của Huy Cận là biết gợi nỗi buồn, biết gieo nỗi buồn vào không gian bao la, điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ Tràng giang.
Thơ Huy Cận thường giàu tính triết lí, suy ngẫm sâu sắc về nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị sống. Huy Cận yêu thể loại thơ Đường của văn học Trung Hoa, rồi cũng yêu chất lãng mạn của văn học Pháp. Vì vậy, khi đọc thơ ông, ta luôn thấy trong từng câu thơ mang màu sắc cổ kính, lúc lại thấy phảng phất nét hiện đại. Tuy nhiên, chúng hỗ trợ nhau một cách kỳ diệu, tạo nên một hồn thơ rất Huy Cận, rất rộng lớn.
Ở Tràng Giang, nếu khổ thơ đầu tả cảnh sông nước mênh mông thì ở khổ thơ thứ hai dường như tác giả đã nhắm mắt, nhìn cồn cát, tai đã bắt đầu lắng nghe, lòng lại càng lắng lại.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Huy Cận không nhìn thấy những cồn cát lớn mà chỉ thấy những cồn cát nhỏ bé, lạc lõng, “rụng rời”, rất thưa thớt và mong manh, có cảm giác Huy Cận miêu tả cồn cát như một nhành liễu rung rinh trước gió. Thêm chút “gió lặng” khiến không gian càng thêm hoang vắng, hiu quạnh, gió ở bờ sông mà chỉ đến mức “lấp ló” thì cô quạnh quá, đọc từ đó người ta chỉ biết liên tưởng. Chỉ cần nghĩ đến từ “buồn thiu”!
Để rồi trong lúc ngẫm nghĩ, Huy Cận chợt đặt ra một câu hỏi, đánh dấu chính thức cho kiếp người mong manh giữa không gian vắng vẻ của bến Chàm lúc bấy giờ. Bạn có nghe tiếng người đi chợ chiều hay thắc mắc chợ ồn ào ở đâu? Dù sao cũng chẳng sao cả, bởi cái gì cũng có thật và chỉ về một cảnh, có tiếng chợ, nhưng đã xa rồi, chỉ lờ mờ, chỉ thoáng qua, và Huy Cận lúc này vẫn một trên bờ sông này. Nghệ thuật động lấy tĩnh tài tình, đẹp đẽ, qua ngòi bút buồn của Huy Cận lấy tiếng “làng” đưa vào không gian rộng lớn này càng tô đậm thêm vẻ đẹp hoang vắng, vắng lặng của bến sông Hồng. Rồi lòng Huy Cận cũng trở nên lặng lẽ hơn, buồn bã hơn, cô đơn và lạc lõng hơn.
“Nắng xuống, trời lên” là một hình ảnh hiện đại kết hợp với điệp ngữ “sâu chót vót” đã mở ra chiều rộng bao la của những dòng sông, nay lại càng trở nên rộng lớn hơn. Đất trời như nới rộng khoảng cách trong thơ Huy Cận, vừa thăm thẳm vừa xa xăm. Tưởng rằng mở rộng không gian thì nỗi buồn của Huy Cận sẽ loãng hơn, bớt hiu quạnh hơn, nhưng không, ta dường như cảm nhận được nhà thơ đang dần trút bỏ nỗi buồn của mình. Huy Cận như con mực phun mực đen khắp mặt nước. Để rồi đâu đâu cũng thấy nỗi buồn của Huy Cận, từ ngọn gió, bầu trời, dòng sông, bến đò đều nhuốm một nỗi buồn của ông. Đọc câu thơ cuối, Huy Cận đã ngầm khẳng định tình cảm của mình “Sông dài, trời rộng, bến vắng”. Khắp không gian dài rộng ấy không một bóng người, chỉ có “bến vắng”. Ông đang thầm thở dài cho thân phận lênh đênh, lẻ loi của một thi nhân trong xã hội nhiễu nhương, giông tố này, có lẽ anh cũng đang thầm hoài niệm những ngày xưa huy hoàng, đẹp đẽ chăng?
Chỉ một bài thơ bốn câu ngắn gọn, mang màu sắc cổ điển và phảng phất nét hiện đại cũng đủ cho ta thấy một hồn thơ độc đáo của Huy Cận. Dường như thơ ông chỉ gói gọn trong một chữ “buồn” mà ông khai thác, có lẽ sống dưới thân phận một nhà thơ nghèo, với cuộc đời xô bồ nên Huy Cận mới sinh ra nhiều nỗi buồn như vậy. Thơ Huy Cận phải đọc kỹ mới thấy một tình yêu quê hương thiết tha, nồng nàn không thua kém ai ẩn chứa trong những vần thơ đượm buồn.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài phân tích khổ 2 Tràng Giang hay nhất:
Không nồng nàn, say đắm như Xuân Diệu, cũng không lãng mạn điên cuồng như Hàn Mặc Tử, thơ Huy Cận là một nỗi buồn vô tận, buồn từ tâm hồn đến cảnh vật. Đọc thơ ông cảm nhận được một chút gì đó hiện đại của văn học Pháp nhưng hơn hết vẫn là chất cổ điển đậm đà của thơ Đường nên ta thường thấy trong thơ ông một nỗi buồn lạ lùng, rất vô định. Nhưng rốt cuộc, nỗi buồn thi ca của ông chỉ xuất phát từ nỗi buồn trần thế, hoài niệm về những điều xưa cũ, những danh lam thắng cảnh giờ đã không còn, chỉ còn lại cuộc đời bộn bề. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận là Tràng Giang.
Nhà thơ 21 tuổi đứng bên bến Chàm sông Hồng suy tư về cuộc đời, kiếp người, rồi trước không gian bao la, trời rộng – sông dài, người đọc đắm chìm trong nỗi buồn của nhà thơ. Chỉ lấy nội dung của khổ thơ thứ hai của Tràng Giang cũng đủ để chúng ta suy ngẫm về những tình cảm nhân văn như thế.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Nhìn dòng sông chảy mãi, Huy Cận hướng đôi mắt buồn về phía những đụn cát nhỏ “thơ mộng” gợi cảm giác mình bé nhỏ, nhẹ tênh, bồng bềnh. Những đụn cát nhỏ bên bờ sông rung rinh trôi theo gió mới buồn làm sao. Cả gió và cồn đều gợi lên một nỗi buồn khó tả, đó là cảm giác lạc lõng của nhà thơ cô đơn trước dòng sông, buồn trước thời cuộc. Rồi Huy Cận chợt nghe “Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều” là một câu hỏi bỏ ngỏ, nhà thơ tự hỏi mình hay hỏi trời đất như vậy. Huy Cận đã hỏi điều gì? Hỏi tiếng chợ quê ở đâu hay hỏi tiếng chợ chiều có âm vang cũng là nghĩa. Nghệ thuật động và tả tĩnh tài tình, độc đáo như thế, “làng xa vắng” như thế mà Huy Cận vẫn nghe tiếng người xì xào trong buổi chợ chiều, chứng tỏ bến này phải vắng vẻ, tĩnh mịch đến nhường nào ? Đôi khi ở khổ thơ thứ hai này, sự sống lại hiện ra nhưng phù du, mong manh nên Huy Cận càng cảm thấy cô đơn hơn.
Một hình ảnh khác nhấn mạnh sự tự do, sáng tạo của nhà thơ trong Nỗi buồn của Huy Cận kết hợp với cụm tính từ “sâu chót vót” dễ gợi cho người ta liên tưởng đến một khung tranh sâu rộng vô tận. Cảnh vật bao la, đất trời đã xa rồi, bây giờ sâu hơn và xa hơn. Chỉ là một câu thơ giản dị nhưng Huy Cận đã đặt vào đó cả một không gian rộng lớn, bao la và trong không gian đó chỉ có nhà thơ. Quả thật không sai khi nói Huy Cận là nhà thơ có nỗi ám ảnh sâu sắc về không gian, bởi nếu không có niềm xúc động sâu sắc ấy thì làm sao có những vần thơ tuyệt vời về không gian như bài thơ?
Kết lại bài thơ, câu thơ dường như là lời khẳng định của tác giả “Sông dài, trời rộng, bến vắng”. Vâng, trời càng rộng, sông càng dài, bến càng thu về một nơi, càng lẻ loi như bóng thi nhân ngơ ngác bên bến Chèm. Sao Huy Cận buồn thế, sao nỗi buồn ấy lan tỏa khắp không gian, từ dòng sông, đến trời, đến bến, đến gió, đến cồn cát, cũng buồn với nỗi buồn man mác mang tên Huy Cận. Đúng như lời
Như vậy chỉ là một bài thơ ngắn vỏn vẹn 4 dòng nhưng ta thấy được tình cảm của Huy Cận, và qua đó ta cũng thấy được tài năng của một nhà thơ có nỗi ám ảnh sâu sắc về không gian. Thơ Huy Cận vừa cổ điển vừa hiện đại, rất ý nghĩa và sâu sắc. Đọc kỹ, ta như đắm chìm trong thơ ông để cùng buồn với nỗi buồn của ông.
3. Bài phân tích khổ 2 Tràng Giang ấn tượng nhất:
Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận “gần như trở thành cổ điển” (Xuân Diệu). Cảm hứng của bài thơ được khơi dậy từ một buổi tiếp tân mùa thu năm 1939, khi tác giả đứng ở bờ nam bến Chèm nhìn dòng sông Hồng mênh mông sóng nước mà ngẫm nghĩ về kiếp người thật nhỏ bé, cô đơn, vô định. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ bởi sông Hồng gợi cảm mà còn mang những nỗi niềm chung về nhiều dòng sông khác của quê hương, đất nước. Vì vậy, cảnh sóng nước trong bài thơ đẹp buồn nhưng cũng thân thuộc, gần gũi với mỗi người Việt Nam. Qua bài thơ ta còn thấy được cái nồi sầu vũ trụ của Huy Cận. Đó là cảm giác cô đơn trước sự vô tận của bầu trời bao la.
Tiếp nối ý thơ gợi ra từ khổ thơ đầu. Huy Cận đã thêm những nét thô để miêu tả cái nhỏ bé, hiu quạnh, xa vắng và nỗi buồn của tâm hồn con người đã thấm sâu vào tạo vật, ở đây Huy Cận đã sử dụng hàng loạt hình ảnh, từ ngữ đượm buồn : “Cồn” giữa sông đã gợi sự trống trải, hiu quạnh, nay thêm “cồn nhỏ” lại càng buồn hơn với từ “nhàn” ở trước và “gió lộng” ở sau, không chỉ buồn mà còn gợi. Cảm thấy mình quá nhỏ bé, thưa thớt và lạnh lẽo, Huy Cận đã từng tâm sự rằng khi khổ thơ trên chịu ảnh hưởng của bài thơ trong Chinh phụ ngâm:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thối đìu hiu mấy gò
Câu thơ thứ hai có hai cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “trụ” có nghĩa là “không”, giữa không gian rộng lớn, vắng vẻ ấy lại không có cả tiếng rao quen thuộc của buổi chợ chiều càng làm cho khung cảnh thêm hoang vắng. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng có tiếng chợ chiều nhưng âm thanh nhỏ quá nên tạo không khí cho khung cảnh thêm tươi vui, sinh động nhưng ngược lại lại thêm vắng vẻ, hiu quạnh.
Do đó, phân tích theo một trong hai cách này đều có thể chấp nhận được, miễn là thể hiện được bầu không khí suy tàn, buồn bã và cô tịch.
Không gian thơ bỗng rộng mở đến vô cùng. Đây là cảm xúc vũ trụ mãnh liệt và tinh tế của Huy Cận: Khi mặt trời mọc, cảm giác về khoảng cách trời đất trở nên hữu hạn, và khi mặt trời lặn, mặt trời mọc làm cho bầu trời quang đãng và như thể nó dày vô tận. Khi đó, người nhìn từ dưới lên sẽ thấy bầu trời sâu “chót vót”. Huy Cận không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu” vì nó vừa gợi độ cao vừa gợi sức hấp dẫn, chiều sâu của bầu trời hoàng hôn, từ “tháp” tô thêm vẻ rùng rợn cho khung cảnh.
Đến câu thơ tiếp theo, cùng với cái “sâu” của bầu trời là cái bao la của vũ trụ và chiều dài của dòng sông, tất cả là một vẻ đẹp hùng vĩ mà hoang vắng, gợi nỗi buồn cô đơn, thấm thía , cái “khoảnh khắc” mơ hồ của con người trước vũ trụ, trước “trời rộng, sông dài”. Trong không gian ba chiều bao la ấy, hình ảnh bến sông hiện lên nhỏ bé, hiu quạnh. “Bến vắng” thêm hiu quạnh, lạnh lẽo, buồn bã. Biện pháp nghệ thuật tương phản được Huy Cận sử dụng rất thành công, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Huy Cận nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã mang tâm trạng buồn bã, cô đơn của mình “vượt khỏi thiên nhiên”. Tuy nhiên, trong sâu thẳm của nỗi buồn vũ trụ ấy vẫn là một tình yêu quê hương tha thiết. Điều đó giải thích vì sao nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Tràng Giang là bài thơ hát những dòng sông đất nước, dọn đường cho tình yêu đất nước”.