Năm 1940 Huy Cận cho ra tập thơ tuyệt phẩm "Lửa thiêng" trong đó Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Huy Cận và cũng là một bài thơ tiêu biểu trong phong trào thơ Mới. Sau đây là tổng hợp các mẫu bài phân tích Tràng giang siêu hay. Mời các bạn cùng đọc bài tham khảo:
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Tràng Giang:
Mở bài:
– Giới thiệu những nét chính về
– Giới thiệu khái quát về bài “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)
Thân bài:
Hoàn cảnh sáng tác của “Tràng giang”: Tháng 9/1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy.
Nhan đề: Mang âm hưởng Hán – Việt vừa trang trọng vừa cổ kính, gợi ra trước mắt người đọc cảnh sông nước nặng tình.
Câu thơ đề từ: Khái quát ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ
A. Khổ 1:
– Câu thơ đầu tiên khổ thơ thứ nhất đã mở ra hình ảnh sông nước vừa rộng vừa dài vừa mênh mông
→ Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những con sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la
– Hình ảnh: con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi trong không gian mênh mông
→ Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi, nhỏ bé
Hai câu cuối:
– Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi từ trước, cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa không gian mênh mông cô quạnh càng khiến nỗi buồn dâng lên cao hơn
– Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc tâm trí luôn thấy khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về chốn nào
→ Trong khổ thơ thứ nhất, nếu dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh đại diện cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, lạc lỏng không chốn nương tựa, gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.
B. Khổ 2:
Hai câu thơ đầu phác họa nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:
– Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm gợi lên sự thưa thớt, hoang vu, lạnh lẽo
– Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có theo nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu như thế nào thì câu thơ ấy vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người nơi hoang vu này
– Hai câu sau, không gian càng thêm được mở rộng cả về bốn phía khiến cho khung cảnh đã hiu quạnh lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch, gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn ai cũng xót xa nhất là thương thay tác giả
C. Khổ 3:
– Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: nhuốm hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi lênh đênh, không biết mai này ra sao
– Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”
→ Nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, thiếu đi tình yêu thương lòng người, sức sống và hơn cả là giao hòa gắn kết người với người
D. Khổ 4:
– Hai câu thơ đầu khổ thơ: một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ, áng chiều thơ mộng được hiện ra
– Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc. Cũng lại là nối tiếp nhau nhưng hình ảnh lần này khác với con sóng, nó có sức sống, nó tạo nên vẻ đẹp tươi mới
– Cánh chim xuất hiện như áng lên một tia ấm áp sự sống cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ
– Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả
– Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa ý vị người con ngày một xa nhà, hơn thế nữa nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ – nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết.
– Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ
Kết bài:
Khái quát nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Cảm nhận về phong cách nhà thơ và những cảm nhận của bản thân khi đặt mình vào đó.
2. Phân tích “Tràng Giang” của Huy Cận ngắn nhất:
Trong phong trào thơ mới có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng về tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, nỗi nhớ quê, trong đó phải kể đến nhất là Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của ông chưa đựng biết bao nỗi sầu buồn man mác trước xã hội ông đang ngắm nhìn, sâu hơn hết là tiếng lòng nhớ quê, nỗi lòng yêu nước da diết. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” mở đầu, với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Gợi ra một nỗi buồn man mác, cô độc giữa dòng đời mênh mông. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho diễn biến phía sau càng giãi bày tự nhiên:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn lòng người. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm của nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm nặng, lớp lớp bi sầu trong lòng thi sĩ. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, giữa dòng sông mênh mông ấy nhưng chỉ mỗi con thuyền lênh đênh hiu quạnh, cô đơn đến lạnh người cũng như lòng Huy Cận bấy giờ.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” làm cho câu thơ thêm phần uyển chuyển còn không kém phần cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Phải chăng cành củi khô ấy đang đại diện cho chính thi sĩ ở giữa dòng đời.
Tưởng chừng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui nho nhỏ. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu lại càng lớn thêm nhiều chút, đến cảnh vật còn man mác buồn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều
Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, thế nhưng trong cảnh tác giả miêu tả không có lấy chút tiếng cười đùa, tiếng rao hàng vang khắp tất cả yên lặng đến cô độc lạ thường. Vạn vật như tĩnh lặng chính trong bầu không khí đó càng làm cho không gian thêm mở rộng mênh mông:
“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu”
Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá càng làm không gian thêm rộng mở. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Không gian càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật lại càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như lan tỏa sâu trong từng hơi thở.
Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là đang ẩn dụ kiếp người nhỏ bé không nới nương tựa đang bơ vơ. Bầu trời bao la bát ngát, sông nước mênh mông không có lấy nổi con đò hay cái cầu bắc ngang như chặt đứt sự kết nối giữa người với người. Mọi thứ dường như đang đối lập cố chống đối với con người, kẻ cô đơn cần sẻ chia lại không có lấy chút tình người nào cùng san sẻ.
Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.
Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh nắng mà trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé với vũ trụ rộng lớn càng khiến lòng người hiu quanh cô đơn.
Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
“Tràng giang”- nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời. Huy Cận đã thổi hồn của riêng mình gửi gắm vào bài thơ cũng như nói lên nỗi lòng nhớ quê hương, yêu đất nước của bao người.
3. Phân tích “Tràng Giang” của Huy Cận hay nhất:
Khi nghĩ tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não”. Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông góp mặt vào thơ ca đương thời một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Giữa sự pha trộn chất cổ điển và hiện đại, gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, nhất là phải kể đến Tràng giang- tác phẩm tiêu biểu đại diện của ông. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940).
Chiều thu năm 1939, một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên đã cho ra bài thơ Tràng giang. “Tràng giang” là được sử dụng theo ngôn ngữ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính. Lựa chọn tựa đề cũng mang ý nghĩa mà ông muốn truyền tải. Là nỗi buồn trước không gian mênh mông, rộng lớn bao trùm cả vũ trụ.
Và quả thực trước một tràng giang như thế, ông đã không giấu nổi nỗi buồn mà để lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ đầu mở ra khung cảnh tràng giang mênh mông, đối lập hoàn toàn với tất cả những thứ nhỏ bé. Và điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Đã không còn sự sống lại còn trôi dạt vô định trên dòng sông lạnh lẽo đang ẩn dụ cho chính lòng thi nhân. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu cả nỗi cô đơn. Phải chăng là đang tái hiện lại thân cô hiu quạnh của tác giả.
Khổ thứ hai, điểm nhìn đã xa hơn, và khung cảnh trên sông cũng được hướng vào chiếc cồn nhỏ hay vào bầu trời đẹp và khắp cả dòng sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó có âm thanh của sự sống? Dẫu có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự tĩnh lặng. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khuếch tán rộng hết mức ở toàn vũ trụ. Nỗi buồn trơ trọi đạ rọng khắp không gian và nỗi cô đơn ngày càng lớn. Thi nhân đã không còn đối diện với dòng sông mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như thế.
Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đây một chút sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Không biết bao nhiêu hàng bèo cứ thể nối tiếp trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu? Hình ảnh đơn giản nhưng gói ghém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con người lúc bây giờ. Chỉ còn thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu hẹp lại theo bất cứ một chiều nào.
Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen lẫn chút hiện đại khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà:
Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Khung cảnh thiên nhiên có sự thay đổi, lần này không còn là dòng sông mênh mông, vắng lặng mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim, nhà thơ vẽ lên nền trời ấy nhưng là những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển động của hai sự vật. Thêm một lần nữa lòng người không thể nào xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Thế mà quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Chẳng cần vịn vào đâu, tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết, trĩu nặng với quê hương.
Bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn đây chính là điểm đặc biệt của Huy Cận khiến mọi người tán thưởng. Một “Tràng Giang” hiện lên đầy tình yêu quê hương đất nước.
/
5
(
1
bình chọn
)