Ngắm trăng là một trong những tác phẩm xuất sắc thể hiện nét đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về thiên nhiên, cuộc sống dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu điều đó thông qua bài viết này nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Ngắm trăng hay nhất:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
*Hoàn cảnh:
Xưa các thi nhân gặp trăng đẹp đều mang rượu ra ngồi dưới trăng uống rượu thưởng hoa, ngắm trăng làm thơ. Đây được coi là thú vui tao nhã, lãng mạn và nên thơ.
– Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác:
Thời gian: nửa đêm
Không gian: trong nhà tù, nơi chỉ có 4 bức tường tối tăm và xiềng xích.
Điều kiện: “không rượu, không hoa”
⇒ Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gian khổ, ở một nơi chỉ nghĩ đến cái chết, tra tấn đau khổ nhưng Bác dường như đã quên đi hoàn cảnh, thân phận của người tù mà sống thoải mái đứng nhìn trăng làm thơ.
– Tâm trạng của Bác trước cảnh trăng “khó ở”:
Câu thơ thứ hai là một câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bối rối, xao xuyến trước cảnh đẹp bên ngoài song sắt.
Trước một vầng trăng đẹp như vậy mà Bác không có rượu để trả ơn ánh trăng càng làm cho nhà thơ bối rối hơn.
*Tình yêu thiên nhiên:
Tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác:
Qua song sắt nhà tù, Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên và của ánh trăng. Xiềng xích nhà tù chỉ trói được thân xác Bác chứ không thể ngăn được tâm hồn nhà thơ bay bổng với thiên nhiên rộng lớn.
Hai câu 3, 4 đối nhau: Mỗi câu thơ chia làm 3, một bên là “người” (chỉ thi nhân), một bên là “nguyệt” (trăng), ở giữa là song sắt nhà tù. Tuy cấu trúc tương phản này mang tính hiện thực (song sắt ngăn cách người và trăng) nhưng người đọc cũng nhận ra đó là sự giao thoa, hòa hợp giữa thi nhân và ánh trăng, với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, qua đó thể hiện tình bạn cảm động giữa nhà thơ và vầng trăng.
– Phong thái ung dung, ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng
Trong cảnh tù đày tăm tối, Bác vẫn thể hiện ý chí và nghị lực phi thường. phong thái ung dung, thoát khỏi vướng bận vật chất. Tôi vẫn nhìn trăng, vẫn hòa hợp với thiên nhiên dù chân tay bị xiềng xích
Hình ảnh Bác Hồ soi ánh trăng xuyên qua song sắt nhà lao cho thấy trong bất kỳ hoàn cảnh nào Bác cũng luôn khắc khoải hướng về bầu trời tự do, về tương lai tươi sáng của đất nước. Ánh trăng ấy là niềm hy vọng mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng muốn giải phóng dân tộc.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
2. Những bài phân tích bài Ngắm trăng hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Những bài phân tích bài Ngắm trăng hay nhất:
Tác giả Hồ Chí Minh là nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị, nhà cách mạng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông để lại nhiều tác phẩm hay, có tiếng vang lớn trong nền thơ ca nước ta.
Bài thơ “Ngắm trăng” lấy cảm hứng từ ánh trăng sáng, trong veo ban đêm, được nhiều tác giả sử dụng, nhưng trong thơ Hồ Chí Minh. Trăng không chỉ là hình ảnh đẹp của thiên nhiên, mà còn là người bạn thân thiết của con người.
Tác giả Hồ Chí Minh viết bài thơ này trong một hoàn cảnh rất đặc biệt khi tác giả bị Tưởng Giới Thạch bắt giam. Tuy ở trong tù nhưng tâm hồn tác giả vẫn vô cùng tự do thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của tác giả.
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà? ”
(Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ).
Bài thơ diễn tả hiện thực phũ phàng của người lính bị tù đày. Hình ảnh không có rượu, không có hoa, không có gì trữ tình như các thi nhân ngày xưa dùng rượu và hoa để ngâm thơ. Nhưng tác giả Hồ Chí Minh đang ở trong hoàn cảnh bị áp bức, tù đày, làm sao có thể được như các bậc trưởng lão trong việc uống rượu, ngắm hoa, thưởng trăng?
Tuy nhiên, dù thân xác bị giam cầm, không có những chất xúc tác để tâm hồn bay theo gió nhưng tác giả vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên hoang dã. Cảnh buổi sáng đẹp đẽ với ánh trăng sáng vằng vặc, không gợn sóng mà nguyên vẹn khiến tác giả không thể làm ngơ.
“Khó hững hờ” diễn tả vẻ đẹp ánh trăng của thiên nhiên khiến tác giả không khỏi xúc động, xao xuyến.
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
( Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ).
Hai câu thơ này thể hiện sự đồng điệu của tâm hồn tác giả và ánh trăng. Họ giống như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại, thấy nhau mừng rỡ, ánh mắt rưng rưng xúc động.
Trăng đã được tác giả sử dụng biện pháp nhân cách hóa để trở thành người. Bạn thân, đang nhìn người mình yêu say đắm.
Tác giả nhìn ánh trăng vẫn hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng và thánh thiện như thuở nào. Lòng tác giả bỗng trào dâng cảm xúc mãnh liệt, niềm khao khát được trở về quê hương tự do dâng trào.
Xuyên suốt bài thơ là sự im lặng tuyệt đối của con người và thiên nhiên. Trong cái mênh mông ấy chỉ có người và ánh trăng đang nhìn nhau. Dù cả hai không ai nói gì nhưng trái tim họ đã nói thay ngàn lời muốn nói.
2.2. Bài mẫu 2 – Những bài phân tích bài Ngắm trăng hay nhất:
Mở đầu Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh viết như một lời tâm sự:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Càng ngâm càng đợi đến ngày tự do
Thơ đối với Bác là nguồn giải trí, còn với người đọc, mỗi bài thơ anh bắt gặp đều thể hiện trong đó tâm hồn của một nhà thơ, một chiến sĩ, luôn hướng về ánh sáng. “Ngắm trăng” là một bài thơ như vậy.
Tên bài thơ là “Ngắm trăng”, một đề tài phổ biến trong thơ ca, cũng trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả, vầng trăng là người bạn tri ân trút bầu tâm sự. Gặp ánh trăng, thơ Bác hồn nhiên như thiên nhiên:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
(Trong tù không rượu cũng không hoa)
Thường thì các nhà thơ gặp trăng đẹp thường đem rượu ra uống, đem hoa ra ngắm. Vì có rượu và hoa nên trăng trở nên thơ mộng và con người không cô đơn dưới đêm trăng ấy. Nhưng ở câu mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh như nói một cách tự nhiên, không hề than thân trách phận.
Một người đang bị giam cầm, lại mất tự do “nửa chừng” nên chuyện “không rượu, không hoa” là điều tất yếu. Từ “diệc” tăng thêm sự nghèo túng. Nhưng ta vẫn thấy giọng thơ Bác không hề tức giận trước khuyết điểm của mình mà bình tĩnh đón nhận. Đến câu thơ thứ hai, vẫn một cách tự nhiên, câu thơ trở thành câu hỏi:
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
(Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)
Câu thơ nhịp nhàng bởi sự đan xen của các vần bằng, lẫn lộn và nghệ thuật. Trước vẻ đẹp của đêm trăng, tâm hồn nghệ sĩ, say đắm yêu thiên nhiên, hẳn cũng muốn thưởng ngoạn trăng rằm, nhưng đành cam chịu cảnh tù đày, để người ta tiếc nuối, nhưng đừng để vẻ đẹp ấy qua đi vô ích. Làm sao Bác có thể thờ ơ với cái đẹp được?
Nhưng cũng có thể là một lời khẳng định nhẹ nhàng: Bác không thể thờ ơ với cái đẹp nếu có nó. Chính sự không gặp gỡ của một tâm hồn yêu thiên nhiên, tha thiết đã tạo nên một cách hỏi hóm hỉnh như một nụ cười rất tinh tế của Hồ Chí Minh. Tình yêu thiên nhiên đã giúp Bác vượt qua hoàn cảnh:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)
Rượu hoa thiếu nhưng dường như tâm hồn thi nhân đã đủ cho một bữa tiệc trăng. Nhân – trăng, Nguyệt – Thi Giá có “bình yên” ở giữa nhưng có lẽ ngục tù không thể vượt qua được mối quan hệ giữa người ngắm trăng và người đi tìm trăng. Những song sắt hiện lên thô ráp, vô tình nhưng bất lực bởi trăng và Người vẫn gặp nhau rất tự do, tế nhị.
Trước buổi ngắm trăng, Bác Hồ là người tù đi tìm trăng, nhưng sau khi ngắm trăng, người tù đó đã trở thành “nhà thơ”. Có người nhận xét: đây đúng là một cuộc vượt ngục tâm linh. Bị giam cầm trong ngục tù nhưng tâm hồn Bác luôn hướng về ánh sáng, hướng về thiên nhiên.
Việc ngắm trăng của Bác diễn ra qua bốn dòng thơ ngắn gọn thể hiện tâm hồn của một vị lãnh tụ hòa nhập với thiên nhiên, gắn bó và gắn bó với thiên nhiên. Với Bác, ai nhìn trăng cũng được trăng nhìn. Vẻ đẹp của Bác đủ làm trăng say. Điều đó không chỉ khẳng định cái hay, cái mới trong lối viết của ông mà còn thể hiện sự tinh tế, hiện đại khi đi tìm một chất liệu thơ quen thuộc trong kinh điển.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Bác luôn tạo chỗ đứng vững chắc cho thiên nhiên. Có khi thiên nhiên để lấp đầy nỗi cô đơn, có thiên nhiên báo hiệu chiến thắng, có khi thiên nhiên để trút bầu tâm sự, nhưng cũng có khi thiên nhiên nặng trĩu khát vọng tự do và che chở cho một tâm hồn muốn tự do. Hướng về phía ánh sáng. “Ngắm trăng” là bài thơ khẳng định tâm hồn, nhân cách của một thi nhân, sự cao thượng của một lãnh tụ trong hoàn cảnh ngục tù tăm tối.
3. Những bài phân tích bài Ngắm trăng đạt điểm cao nhất:
Suốt cuộc đời Bác Hồ luôn tập trung chăm lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Ông không có ước muốn trở thành một nhà thơ, nhưng như ông đã từng viết:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng ngồi trong ngục biết làm sao đây?”
Hoàn cảnh “rảnh rỗi sinh nông nỗi” khiến ông đến với thơ như một cái duyên. Trong những năm tháng bị giam cầm trong nhà ngục của Tưởng Giới Thạch, Bác Hồ đã có bài thơ rất hay: “Vọng nguyệt”.
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”
Bản dịch:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Tên bài thơ là “Vọng nguyệt” – “Ngắm trăng”. Người xưa ngắm trăng trên thềm trăng, bên vườn hoa cùng bạn bè, túi thơ, chén rượu. Nhưng lúc này, Bác đang ngắm trăng trong một hoàn cảnh thật đặc biệt:
“Trong tù không rượu cũng không hoa”
Bài thơ bộc lộ nhiều điều bất ngờ. Người ngắm trăng là một tù nhân không có tự do “trong tù”. Trong hoàn cảnh đó, con người thường chỉ biết vật lộn với đói khát, đau đớn và hận thù. Nhưng Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên tha thiết đã hướng về ánh trăng dịu dàng, trong sáng. Không những thế, cái ngục tối tăm ấy “không rượu không hoa”. Chữ “diệc” trong nguyên văn chữ Hán (có nghĩa là “cũng”) nhấn mạnh sự thiếu thốn, khó khăn trong điều kiện “ngắm trăng” của Bác Hồ.
Không tự do, không rượu, không hoa, nhưng “Đối thử lương tiêu nại nhược hà?” – Làm sao ta có thể đối mặt với trăng sáng? Nguyên tác chữ Hán là câu hỏi bâng khuâng, xao xuyến của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp trong trẻo, tròn đầy của ánh trăng. Không có điều kiện vật chất tối thiểu, không có tự do nhưng ở Hồ Chí Minh đã có một cuộc “vượt ngục tinh thần” rất độc đáo như Bác đã từng tâm sự:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao”
Thể xác bị tù đày nhưng tâm hồn Bác vẫn bay bổng cùng thiên nhiên. Điều đó được lí giải bởi tình yêu thiên nhiên của Bác và cũng bởi một tinh thần “thép” không khuất phục trước cái xấu, cái ác. Trăng trong, lòng người cũng trong nên giữa trăng và người có một sự hòa hợp tuyệt vời:
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”
Bản dịch thơ:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Trong nguyên tác chữ Hán, nhà thơ sử dụng phép đối lập giữa hai câu thơ “nhân” – “nguyệt”, “hướng” – “tòng”, “song tiền” – “song khích”, “minh nguyệt” – “thi gia”. Nó thể hiện sự hòa hợp, đồng điệu giữa người và trăng để trăng và người như hai người bạn tâm giao. “Con người” không sợ ngục tù mà “hướng lên mặt trăng”. Trong tiếng Hán, “hướng song tiền khán minh nguyệt” có nghĩa là ngắm nhìn, thưởng thức. Đáp lại tấm lòng của quản ngục – thi sĩ, trăng cũng “khán thi nhân”. Trong tiếng Trung Quốc, “tâm” có nghĩa là làm theo; Đó là một cảm giác rất độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, là khát vọng bất diệt của thi nhân. Nhưng bây giờ, mặt trăng đã đi qua. những khe hẹp và chui sâu vào nhà tù ẩm thấp để chiêm ngưỡng thi nhân hay tâm hồn thi sĩ. Điều đó khẳng định vẻ đẹp của con người Hồ Chí Minh.
“Vọng nguyệt” ra đời vào những năm 1942 – 1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch. Đoạn thơ thể hiện phong thái ung dung, bất chấp hiểm nguy, gian khổ của Bác. Trong hoàn cảnh nào, ông cũng hướng về thiên nhiên, thể hiện tình cảm rộng mở với thiên nhiên. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của tinh thần thép Hồ Chí Minh.
“Vọng nguyệt” không chỉ là một bài thơ tả cảnh đơn thuần. Bài thơ cũng là bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh. Và như vậy, bài thơ thực sự là một thi phẩm xứng đáng trong kho tàng thơ ca Việt Nam.