Phần bù rủi ro là gì? Trong tiếng Anh phần bù rủi ro được biết đến với tên gọi đó là Risk premium. Ví dụ và công thức xác định phần bù rủi ro?
Trong quá trình đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực tài chính thì rủi ro là một điều mà không chủ thể nào tham gia vào hoạt động đầu tư mong muốn nó sảy ra. Tuy rằng không được mong muốn những rủi ro này vẫn cứ sảy ra. Do đó, trong quá trình đầu tư mà nếu những người thực hiện các khoản đầu tư rủi ro hơn sẽ được đền bù bằng lợi tức lớn hơn. Phần bù rủi ro là số tiền mà nhà đầu tư dự kiến sẽ nhận được khi chịu rủi ro mất mát số tiền của mình khi đầu tư thì phần tiền này được gọi chung là phần bù rủi ro. Đây có thể xem là một trong những hoạt động được các chủ thể dùng để bù đắp vào những tổn thất mà người đầu tư đã đứng ra chịu rủi ro trước đó.
1. Phần bù rủi ro là gì?
Trong tiếng Anh phần bù rủi ro được biết đến với tên gọi đó là Risk premium.
Phần bù rủi ro là tỷ lệ hoàn vốn của một khoản đầu tư cao hơn và cao hơn tỷ lệ hoàn vốn không có rủi ro hoặc được đảm bảo. Để tính toán phần bù rủi ro, trước tiên nhà đầu tư phải tính toán lợi tức ước tính và tỷ suất sinh lợi phi rủi ro. Lợi tức ước tính, hoặc lợi nhuận kỳ vọng, trên một cổ phiếu đề cập đến số tiền lãi hoặc lỗ mà nhà đầu tư mong đợi từ một khoản đầu tư cụ thể. Lợi tức ước tính là một dự báo và không phải là một lợi tức được đảm bảo. Các nhà đầu tư có thể tính toán lợi nhuận ước tính bằng cách nhân các kết quả tiềm năng với phần trăm khả năng chúng xảy ra và sau đó cộng các phép tính đó lại với nhau. Tính toán lợi nhuận ước tính là một cách để các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của một khoản đầu tư.
Lãi suất phi rủi ro là tỷ suất sinh lợi của một khoản đầu tư khi không có khả năng xảy ra tổn thất tài chính. Ví dụ, chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ tín phiếu Kho bạc, điều này làm cho chúng có rủi ro thấp. Tuy nhiên, do rủi ro thấp nên tỷ suất sinh lợi cũng thấp hơn so với các loại hình đầu tư khác. Nếu tỷ suất sinh lợi ước tính của khoản đầu tư nhỏ hơn lãi suất phi rủi ro, thì kết quả là phần bù rủi ro âm. Trong những trường hợp này, các nhà đầu tư tốt hơn nên đầu tư vào tín phiếu Kho bạc vì lợi nhuận vừa lớn hơn vừa được đảm bảo.
Phần bù rủi ro là lợi tức đầu tư mà một tài sản dự kiến sẽ sinh ra vượt quá tỷ suất sinh lợi phi rủi ro. Phần bù rủi ro của tài sản là một hình thức bù đắp cho các nhà đầu tư. Nó đại diện cho khoản thanh toán cho các nhà đầu tư để chịu đựng rủi ro bổ sung trong một khoản đầu tư nhất định so với một tài sản phi rủi ro. Hãy coi phần bù rủi ro như một hình thức thanh toán rủi ro cho các khoản đầu tư của bạn. Một nhân viên được giao công việc nguy hiểm mong đợi nhận được tiền trả cho rủi ro để đền bù cho những rủi ro mà họ thực hiện. Nó tương tự với các khoản đầu tư rủi ro. Một khoản đầu tư mạo hiểm phải cung cấp tiềm năng thu lợi nhuận lớn hơn để bù đắp cho nhà đầu tư rủi ro mất một phần hoặc toàn bộ vốn của họ.
Khoản bồi thường này dưới dạng phần bù rủi ro, là khoản lợi nhuận bổ sung cao hơn mức mà các nhà đầu tư có thể kiếm được mà không gặp rủi ro từ các khoản đầu tư như chứng khoán của chính phủ Hoa Kỳ. Phần thưởng cao cấp thưởng cho các nhà đầu tư khi họ có triển vọng mất tiền trong một công việc kinh doanh thất bại và nó không thực sự kiếm được trừ khi doanh nghiệp thành công.
Phần bù rủi ro có thể được hiểu như một phần thưởng thu nhập thực sự bởi vì các khoản đầu tư rủi ro vốn có lợi nhuận cao hơn nếu chúng thành công. Đầu tư vào các thị trường đã thâm nhập tốt – và có xu hướng có kết quả có thể đoán trước – không có khả năng thay đổi thế giới. Mặt khác, những đột phá thay đổi mô hình có nhiều khả năng đến từ các sáng kiến mới và mạo hiểm. Đó là những loại đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận vượt trội, mà sau đó chủ doanh nghiệp có thể sử dụng để thưởng cho các nhà đầu tư. Một động lực cơ bản này là lý do tại sao một số nhà đầu tư tìm kiếm các khoản đầu tư rủi ro hơn, biết rằng họ có thể thu được khoản tiền hoàn lại tiềm năng lớn hơn.
Phần bù rủi ro có thể gây tốn kém cho người đi vay, đặc biệt là những người có triển vọng đáng ngờ. Những người đi vay này phải trả cho nhà đầu tư phần bù rủi ro cao hơn dưới dạng lãi suất cao hơn. Tuy nhiên, bằng cách gánh vác gánh nặng tài chính lớn hơn, họ có thể tự đe dọa đến cơ hội thành công của mình, do đó làm tăng khả năng vỡ nợ. Với suy nghĩ này, lợi ích tốt nhất của các nhà đầu tư là xem xét mức phí bảo hiểm rủi ro mà họ yêu cầu. Nếu không, họ có thể phải tranh nhau đòi nợ trong trường hợp vỡ nợ. Trong nhiều vụ phá sản nợ nần chồng chất, các nhà đầu tư chỉ thu lại được một vài xu trên đô la khi đầu tư của họ, bất chấp những hứa hẹn ban đầu về mức phí bảo hiểm rủi ro cao.
2. Ví dụ và công thức xác định phần bù rủi ro:
Lợi tức ước tính trừ đi lợi tức của một khoản đầu tư phi rủi ro bằng phần bù rủi ro. Ví dụ: nếu lợi tức đầu tư ước tính là 6 phần trăm và lãi suất phi rủi ro là 2 phần trăm, thì phần bù rủi ro là 4 phần trăm. Đây là số tiền mà nhà đầu tư hy vọng sẽ kiếm được khi thực hiện một khoản đầu tư mạo hiểm.
Ví dụ, trái phiếu chất lượng cao được phát hành bởi các tập đoàn thành lập thu được lợi nhuận lớn thường ít có rủi ro vỡ nợ. Do đó, những trái phiếu này trả lãi suất thấp hơn trái phiếu do các công ty kém thành lập phát hành với khả năng sinh lời không chắc chắn và rủi ro vỡ nợ cao hơn. Mức lãi suất cao hơn mà các công ty ít thành lập hơn này phải trả là cách các nhà đầu tư được bù đắp cho khả năng chấp nhận rủi ro cao hơn của họ.
Phần bù rủi ro là lợi tức đầu tư mà một tài sản dự kiến sẽ sinh ra vượt quá tỷ suất sinh lợi phi rủi ro. Các nhà đầu tư mong đợi được bù đắp cho rủi ro mà họ thực hiện khi đầu tư. Điều này được coi là một phần bù rủi ro. Phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu là khoản phí bảo hiểm mà các nhà đầu tư mong đợi sẽ thực hiện để chấp nhận rủi ro tương đối cao hơn khi mua cổ phiếu.
Phần bù rủi ro vốn chủ sở hữuPhần bù rủi ro vốn chủ sở hữu (ERP) đề cập đến lợi nhuận vượt quá mà việc đầu tư vào thị trường chứng khoán mang lại so với lãi suất phi rủi ro. Khoản lợi nhuận vượt quá này bù đắp cho các nhà đầu tư vì đã chấp nhận rủi ro tương đối cao hơn khi mua cổ phiếu. Quy mô của phí bảo hiểm thay đổi tùy thuộc vào mức độ rủi ro trong một danh mục đầu tư cụ thể và cũng thay đổi theo thời gian khi rủi ro thị trường biến động. Theo quy định, các khoản đầu tư có rủi ro cao được bù đắp với mức phí bảo hiểm cao hơn. Hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý rằng khái niệm phần bù rủi ro vốn cổ phần là hợp lệ: về lâu dài, thị trường bù đắp cho các nhà đầu tư nhiều hơn khi chịu rủi ro lớn hơn khi đầu tư vào cổ phiếu.
Phần bù rủi ro vốn cổ phần có thể được tính theo nhiều cách, nhưng thường được ước tính bằng cách sử dụng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM):
CAPM (Chi phí vốn chủ sở hữu) = Rf + β (Rm − Rf)
Trong đó:
Rf = Tỷ suất sinh lợi phi rủi ro
β = Hệ số beta cho thị trường chứng khoán
Rm−Rf = Lợi nhuận vượt quá dự kiến từ thị trường
Chi phí vốn chủ sở hữu thực sự là phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu. Rf là tỷ suất sinh lợi phi rủi ro và Rm-Rf là suất sinh lợi vượt mức của thị trường, nhân với hệ số beta của thị trường chứng khoán. Từ năm 1926 đến năm 2002, phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu tương đối cao ở mức 8,4%, so với 4,6% trong giai đoạn 1871-1925 trước đó và 2,9% trong giai đoạn 1802-1870 trước đó.2 đặc biệt cao kể từ năm 1926,3 Từ năm 2011 đến năm 2021, ERP đo được 5,5% .
Nhìn chung, phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu trung bình vào khoảng 5,4%.