Sản xuất cây trồng và vật nuôi ở các quốc gia trên thế giới đã chuyển từ hoạt động thâm dụng lao động sang thâm dụng vốn. Đây chính là sự tác động của công nghệ - khoa học. Hoạt động nông nghiệp áp dụng công nghệ cao vào trong sản xuất được gọi là nông nghiệp công nghệ cao.
Mục lục bài viết
1. Nông nghiệp công nghệ cao là gì?
Nông nghiệp đề cập đến khoa học trồng trọt và chăn nuôi. Các loại cây trồng được tìm thấy trong các môi trường khí hậu đa dạng. Ngoài ra, các loài động vật khác nhau phát triển mạnh trong các môi trường khác nhau. Có nhiều loại cây trồng khác nhau được nông dân trồng như cây có múi, ngũ cốc bao gồm ngô, các loại cây họ đậu như đậu, và các loại cây trồng khác. Nông dân nuôi nhiều loại vật nuôi khác nhau như gia súc, dê, cừu, lạc đà, lừa và các động vật khác.
Luật Công nghệ cao năm 2008 được ban hành, nhận thức về “công nghệ cao” trong chính sách của nước ta từng bước được hoàn hiện. Theo đó, công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tính từng thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
Nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu đề cập đến các hoạt động nông nghiệp liên quan đến các công nghệ mới nhất. Đây là một nền nông nghiệp thâm dụng vốn vì cần phải có vốn đầu tư lớn để mua thiết bị chuyên dụng, bảo trì tài sản, đào tạo lao động, … Nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu liên quan đến hệ thống canh tác thương mại nhằm phục vụ nhu cầu của cả hai bên, trong nước cũng như như thị trường xuất khẩu. Nó sử dụng công nghệ canh tác để tăng sản lượng, đảm bảo chất lượng cao (thường là không có thuốc trừ sâu) và tăng giá trị thị trường. Trồng rau ôn đới trong khí hậu nhiệt đới và phát triển cây trồng kháng bệnh thông qua kỹ thuật gen là những ví dụ phổ biến của nông nghiệp công nghệ cao.
Vụ Khoa học Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), nông nghiệp công nghệ cao được hiểu là: “Là nền nông nghiệp được áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất, bao gồm: Công nghiệp hóa nông nghiệp (cơ giới hóa các khâu của quá trình sản xuất), tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở canh tác hữu cơ”.
Do vậy, có thể hiểu nông nghiệp công nghệ cao là việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các công nghệ mới vào quá trình sản xuất nông nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Một số hiệu quả khi áp dụng nông nghiệp công nghệ cao có thể kể đến như:
– Ứng phó với biến đổi khí hậu và sự bất thường của thời tiết
– Chống lại sự phá hoại của sâu, bệnh
– Giảm công sức lao động
– Giảm thời gian nuôi trồng, tăng giá trị kinh tế
– Làm tăng sản lượng sản phẩm nông nghiệp
– Tạo số lượng hóa đơn lớn với chất lượng cao, đồng đều
– Thay đổi tích cực điều kiện về kinh tế- xã hội địa phương, vùng và quốc gia.
Nông nghiệp công nghệ cao tiếng Anh là High Technology Farming.
2. Sự phát triển của nông nghiệp công nghệ cao:
Các cuộc cách mạng trong sản xuất cây trồng bắt đầu với cuộc cách mạng cơ khí bắt đầu với máy cày, máy trồng và máy gặt, và sự chuyển đổi từ mã lực sang sức kéo. Cuộc cách mạng cơ khí bắt đầu sau khi bước sang thế kỷ XX với việc thay thế ngựa bằng máy kéo, máy liên hợp và máy hái bông hiện đại. Kể từ thời điểm đó, thiết kế máy móc đã bắt kịp với công suất máy kéo ngày càng tăng.
Cuộc cách mạng thứ hai trong sản xuất cây trồng bắt đầu với sự ra đời của ngô lai vào những năm 1930. Các giống ngô lai, cùng với các phương pháp thực hành khác, đã cải thiện đáng kể các điều kiện trồng trọt nên tiềm năng di truyền của cây lai được thể hiện trong hầu hết các năm. Cuộc cách mạng giống cây trồng đã có tác động tương tự đến năng suất của các loại cây trồng khác như lúa gạo, lúa mì và đậu tương.
Cuộc cách mạng thứ ba trong sản xuất cây trồng đã đến với sự sẵn có ngày càng nhiều của các loại phân bón, đặc biệt là phân đạm. Cuộc cách mạng về khả năng sinh sản đã đạt được động lực khi các nhà máy bom, đạn được xây dựng trong Thế chiến thứ hai được chuyển đổi thành nhà máy sản xuất phân đạm. Sự sẵn có của phân bón nitơ, cùng với sự hiểu biết tốt hơn về độ phì nhiêu thông qua thử nghiệm đất, bón phân cải thiện và tăng trưởng của cây trồng. Các chất dinh dưỡng khác như đá vôi, phốt pho và kali đã giúp đạt được tiềm năng di truyền của cây trồng. Các ứng dụng phân bón vẫn đang được cải thiện thông qua các ứng dụng tỷ lệ thay đổi như một phần của nông nghiệp chính xác. Hầu như mọi nông dân Mỹ đều sử dụng phân bón để tăng năng suất cây trồng
Cuộc cách mạng thứ tư là trong việc sử dụng thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và thuốc diệt nấm để kiểm soát cỏ dại, côn trùng và các bệnh làm giảm sự phát triển của cây trồng. Cuộc cách mạng này bắt đầu vào những năm 1950. Thực hành kiểm soát cỏ dại hiện đại cho phép nông dân trồng cây sớm hơn nhiều. Bây giờ ngô và các cây trồng khác phát triển trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thuận lợi hơn mà không bị cỏ dại cạnh tranh về ánh sáng, nước và chất dinh dưỡng.
Cuộc cách mạng thứ năm trong sản xuất cây trồng là cuộc cách mạng công nghệ sinh học. Nó không ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng cho đến khoảng năm 1995. Những lợi ích hiện tại bao gồm hạt giống chất lượng tốt hơn như hạt cải dầu, hạt giống kháng sâu bệnh như bông kháng sâu đục quả và ngô kháng sâu đục quả, hạt giống kháng thuốc trừ cỏ như đậu tương, bông và ngô. Nhiều thay đổi khác sắp xảy ra. Sử dụng hạt giống có chất diệt cỏ, kháng côn trùng và bệnh tật tác động có lợi đến môi trường vì chúng thay thế các hóa chất ít thân thiện với môi trường hơn. Cuộc cách mạng trong công nghệ sinh học hứa hẹn sẽ làm tăng số lượng và chất lượng của các loại thực phẩm chúng ta ăn.
Cuộc cách mạng thứ sáu trong sản xuất cây trồng là sự sẵn có của máy tính, phần mềm và vệ tinh. Công nghệ này cho phép những gì thường được gọi là nông nghiệp chính xác (PA). Công nghệ nông nghiệp chính xác cho phép những tiến bộ từ môi trường nghèo dữ liệu sang môi trường giàu dữ liệu. Trước đây, sản lượng được đo bằng ruộng; bây giờ có thể đo năng suất liên tục. Internet ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của nông dân cũng giống như các loại hình kinh doanh khác.
3. Giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ cao:
Nhà nước hiện nay đã ban hành chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao áp dụng trên phạm vi toàn quốc với những đối tượng khác nhau. Về cơ bản, việc thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã đem lại những hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, khoảng cách về nông nghiệp công nghệ cao giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới còn rất lớn, do đó, nông nghiệp công nghệ cao cần phát triển không ngừng nghỉ. Để tiếp tục phát triển nông nghiệp công nghệ cao, cần lưu tâm đến một số vấn đề như:
– Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hiện đại: Nghiên cứu vận dụng tốt các chính sách của Trung ương đã ban hành vào điều kiện thực tế của từng địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt các chính sách ưu đãi về đất, vốn, khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực,…
– Khẩn trương xây dựng những văn bản và kế hoạch thực hiện chính sách nông nghiệp công nghệ cao mang tính đặc thù, chuyên biệt và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương, xem các nội dung này là một phần quan trọng trong tổng thể mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội.
– Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền về chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao và khuyến khích, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới và sáng tạo trong nông nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ này, có thể:
+ Tăng cường về tần suất, số lượng bản tin tuyên truyền, phát sóng;
+ Nội dung tuyên truyền cần tập trung hơn, chú trọng, đẩy mạnh truyền thông về chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao, về quá trình, thành tựu và kinh nghiệm của các địa phương khác về quá trình thực hiện chính sách này.
+ Tăng cường công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ hoạt động xây dựng nông nghiệp công nghệ cao: phối hợp với các địa phương hằng năm tổ chức các mô hình, điểm trình diễn sản xuất ứng dụng công nghệ cao để chuyển giao nhân rộng, nâng cao mức thu nhập cho người dân,…
– Huy động các nguồn vốn để tăng đầu tư cho phát triển sản xuất: tăng đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, nguồn xã hội cho các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới; hoạt động khuyến nông, bảo vệ thực vật, phòng chống dịch bệnh; xúc tiến thương mại đầu tư cơ sở hạ tầng để tạp điều kiện phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp ven đô, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,…