Nới lỏng định lượng là hoạt động điều chỉnh được thực hiện bởi ngân hàng trung ương. Với các chính sách sử dụng tiền tệ độc đáo. Khi các nhu cầu cũng như tiềm lực sản xuất giảm. Làm cho các hoạt động trao đổi trên thị trường không được tiến hành. Vậy nới lỏng định lượng là gì? Bản chất và nhược điểm của nới lỏng định lượng?
Mục lục bài viết
1. Nới lỏng định lượng là gì?
Nới lỏng định lượng trong tiếng Anh là Quantitative Easing, viết tắt là QE.
Nới lỏng định lượng là một chính sách tiền tệ độc đáo. Với cách thức thực hiện phân bổ tiền tệ trong khắc phục kinh tế. Tạo ra các bước đột phá trên lợi ích được thực hiện. Trong đó một ngân hàng trung ương thực hiện các hoạt động trong thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng được thực hiện. Mang đến các biến đổi trong sản xuất và tạo việc làm. Từ đó thúc đẩy tăng lên về thu nhập. Tính chất cung cầu được thể hiện với một vòng tác động mang đến hiệu quả.
Thông qua cách thức thực hiện mua trái phiếu chính phủ hoặc các chứng khoán khác trong thị trường. Là các khoản đầu tư vào nhu cầu chung của nền kinh tế. Tạo ra việc làm, thu nhập và thúc đẩy các nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Giúp tăng cung tiền và khuyến khích cho vay và đầu tư. Mang đến kết quả trong giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Phân tích khái niệm.
Các nhu cầu nới lỏng diễn ra khi nhu cầu tiêu dùng và cả hoạt động sản xuất không được thúc đẩy. Do không có thu nhập và không có tiền thực hiện cho mục đích tiêu dùng. Người dân thực hiện tiết kiệm đối với số tiền còn lại. Khi mua trái phiếu chính phủ, tức là thực hiện các khoản cho vay chính phủ. Giúp các nhu cầu công nhà nước được thực hiện. Và mang đến các giao dịch hay hợp tác tạo ra việc làm cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Từ đó thúc đẩy việc làm và tạo ra thu nhập. Giúp các nhu cầu trên thực tế được đảm bảo. Và cán cân cung cầu giúp duy trì các hoạt động hay giá cả trên thị trường.
Hoặc ngân hàng trung ương mua chứng khoán khác trên thị trường. Cũng tương tự khi tìm kiếm các cơ hội cho đầu tư và lợi nhuận được tìm kiếm. Doanh nghiệp có khả năng thúc đẩy tài chính thực hiện chính sách phù hợp trên sản xuất. Đảm bảo cho các nhu cầu trên khả năng thực tế của người tiêu dùng. Từ đó cải thiện thị trường và điều chỉnh lại các giá trị kinh tế.
Khi các ngân hàng thực hiện các hoạt động này. Họ hướng đến các lợi ích lớn hơn cho người vay. Giúp họ có cơ hội đầu tư hay kinh doanh để cải thiện nền kinh tế. Các khoản vay được thực hiện nhiều hơn, lãi suất thấp. Đảm bảo người tiêu dùng có khả năng trong chi tiêu, phục vụ nhu cầu. Bên cạnh các doanh nghiệp tìm kiếm được vị thế nguồn cung. Các ý nghĩa được thực hiện trong mong muốn thúc đẩy các đa dạng giao dịch hơn. Từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển, giá cả và giá trị phản ánh với nhu cầu ngày càng cao.
2. Các tác động nới lỏng định lượng với thị trường:
Khi lãi suất ngắn hạn ở mức hoặc gần bằng không. Thì các hoạt động thị trường mở thông thường nhằm tác động tới lãi suất không còn hiệu quả. Thay vào đó, ngân hàng trung ương có thể nhắm tới việc mua một số lượng tài sản nhất định. Vừa đảm bảo cho các khả thi trong thực hiện nghĩa vụ của các bên liên quan. Vừa mang đến các lợi ích tác động trực tiếp nên nhu cầu và khả năng của họ.
Khi ngân hàng trung ương mua trái phiếu của các ngân hàng tư thì sẽ đẩy giá trị trái phiếu tăng lên. Bởi các tiềm năng được nhìn nhận thoáng hơn. Nhà đầu tư khác cũng có nhu cầu tập chung lên các trái phiếu. Khi đó các giá trị nhận về để thực hiện sản xuất kinh doanh có nhiều thuận lợi. Trong khi lợi nhuận (yield) sẽ giảm, cùng lúc lượng tiền cơ sở sẽ lớn hơn. Các khoản vốn huy động được giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng điều chỉnh, khắc phục rủi ro. Phương thức này khác cách thức kích thích thường dùng như mua bán công trái ngắn hạn để giữ lãi suất ở tầm kiểm soát.
Gia tăng lưu hoạt có khả năng giữ lạm phát ở mức hữu ích. Điều phối cũng như cân đối tốt các yếu tố giá cả hay giá trị. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì phương thức này đã giúp giảm thiểu tác động xấu trong cuộc Khủng hoảng tài chính tháng 8 năm 2007.
3. Bản chất và nhược điểm của nới lỏng định lượng:
3.1. Bản chất của nới lỏng định lượng:
Các ngân hàng trung ương tăng cung tiền bằng cách mua trái phiếu chính phủ và các chứng khoán khác. Việc tăng cung tiền cũng có tác động tương tự như tăng cung của bất kì tài sản nào khác. Khi các cung tiền được phản ánh ở các nhu cầu và khả năng cao hơn. Nó làm giảm chi phí của tiền, mở ra các cơ hội đáp ứng nhu cầu hiệu quả hơn. Nới lỏng định lượng làm tăng cung tiền bằng cách mua tài sản bằng lượng dự trữ ngân hàng mới được tạo ra. Để cung cấp thêm thanh khoản cho các ngân hàng.
Chi phí tiền thấp hơn đồng nghĩa với lãi suất thấp hơn. Khi đó các ngân hàng có thể thực hiện mục đích cho vay với các tiêu chuẩn thấp hơn. Chiến lược này được sử dụng khi lãi suất gần bằng 0. Khi đó, các ngân hàng trung ương có ít công cụ để tác động đến tăng trưởng kinh tế. Bởi các nhu cầu vay vốn ngày càng nhiều, và những khó khăn trong tìm kiếm lợi nhuận hay thu nhập vân chưa được khắc phục kịp thời. Khoản đầu tư có lợi nhuận không đáng kể do giá trị tiền phản ánh thấp. Khả năng trả nợ càng khó khăn. Lúc đó ngân hàng trung ương sẽ tìm cách tăng lưu hoạt có hạn định bằng cách mua vào trái phiếu dài hạn để mở rộng tầm hiệu quả.
Các tác động trong nền kinh tế.
Nếu việc nới lỏng định lượng mất đi tính hiệu quả. Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khóa để tiếp tục mở rộng cung tiền. Khi các trái phiếu phát hành được mua nhanh chóng. Chính phủ có thể sử dụng trong các hoạt động đầu tư công. Thông qua các hợp tác và cung cấp sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Thúc đẩy các yếu tố việc làm, lợi nhuận hay thu nhập được cải thiện. Các hoạt động bắt buộc phải được tiến hành nhằm tác động vào nền kinh tế. Tìm kiếm các mục đích ổn định, tăng trưởng.
Trên thực tế, nới lỏng định lượng thậm chí có thể làm mờ ranh giới giữa chính sách tài chính và tiền tệ. Bởi các ý nghĩa được thực hiện trong chính sách có thể phản ánh các mục đích sử dụng khác của nguồn ngân sách. Trong khi thực tế phải sử dụng vào cải thiện kinh tế. Nếu tài sản được mua bao gồm trái phiếu chính phủ dài hạn được phát hành để tài trợ cho chi tiêu thâm hụt ngược chu kì. Thì các hoạt động dài hạn có thể làm thay đổi mục tiêu đã đặt ra với nền kinh tế. Khoảng thời gian dài, các chính sách không được đảm bảo thực hiện hiệu quả.
3.2. Nhược điểm của nới lỏng định lượng:
Có thể dẫn đến lạm phát.
Nếu các ngân hàng trung ương tăng cung tiền thì có thể gây ra lạm phát. Khi mà các dòng tiền được sử dụng lớn trong các hoạt động. Càng tăng cung tiền, lạm phát càng có nguy cơ xảy ra nhanh hơn. Bởi tiền nhiều dẫn đến nhu cầu tăng cao. Thúc đẩy bên cung tăng giá tìm kiếm lợi nhuận lớn hơn. Do đó các giá trị phản ánh trong các giai đoạn đều tăng. Trong trường hợp xấu nhất, ngân hàng trung ương sử dụng nới lỏng định lượng có thể gây ra lạm phát mà không tăng trưởng kinh tế. Khi chưa cải thiện được nền kinh tế thì các giá trị dòng tiền đã bất ổn định. Dẫn tới một giai đoạn được gọi là lạm phát đình đốn.
Không mang đến các tác động mạnh mẽ.
Mặc dù hầu hết các ngân hàng trung ương được tạo ra bởi chính phủ của đất nước họ. Nhằm thực hiện một số vai trò giám sát theo quy định. Tuy nhiên các ngân hàng khác có vai trò và lợi ích độc lập. Ngân hàng trung ương không thể buộc các ngân hàng tăng cường cho vay hoặc buộc người dân phải đi vay và đầu tư. Do đó trong hoạt động của mình, các khoản cho vay không thể đáp ứng được hết những nhu cầu. Cũng như nhiều nhà đầu tư còn lo ngại với những hệ quả thị trường. Cho nên các thúc đẩy vay vốn hay đầu tư vẫn không mang đến hiệu quả tuyệt đối.
Nếu nguồn cung tiền tăng không chảy qua ngân hàng vào nền kinh tế. Nới lỏng định lượng có thể không mạng lại hiệu quả ngoại trừ việc dẫn tới chi tiêu thâm hụt của chính phủ. Khi các hiệu quả trong thực hiện chi tiêu chính phủ không hiệu quả.
Một hậu quả tiêu cực khác là nới lỏng định lượng có thể làm giảm giá trị đồng nội tệ.
Đây cũng là hệ quả được phản ánh với lạm phát. Đối với các nhà sản xuất, điều này có thể giúp kích thích tăng trưởng. Vì hàng hóa xuất khẩu sẽ rẻ hơn trên thị trường toàn cầu. Các nhu cầu vẫn được thúc đẩy mạnh và lợi nhuận tìm về bằng đồng nội tệ lớn. Tuy nhiên, giá trị nội tệ giảm làm cho hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu đắt hơn. Các nhu cầu khác trong hàng nhập khẩu khó khăn. Khi các yếu tố này tăng giá, một số ngành hay lĩnh vực có thể làm tăng chi phí sản xuất và mức giá tiêu dùng.