Nội dung, ý nghĩa Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng 11/1939 đã đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn với sự phân tích kỹ lưỡng từ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, sự xâm nhập của Đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Từ đó nhằm tạo ra cơ hội để tạo dựng một cuộc chiến dành lại tự do, độc lập, dân chủ đất nước.
Mục lục bài viết
1. Tổng quan về Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng 11/1939:
1.1. Hoàn cảnh ra đời:
Đứng trước những sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước trong giai đoạn chiến tranh mới bùng nổ. Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã được diễn ra tại Bà Điểm – Hóc Môn.
1.2. Chủ trương của Đảng trong Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng 11/1939:
Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã được tổ chức tại Bà Điểm (Hóc Môn). Hội nghị diễn ra nhằm đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu trước mắt sau đây: lật đổ đế chế và quân tay sai – những kẻ ủng hộ nó từ đó giải phóng người dân ở Đông Dương và làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Để đạt được những mục tiêu này, hội nghị Ban chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939 đã đề xuất một khẩu hiệu và phương pháp đấu tranh mới. Hội nghị đề nghị tạm gác lại các khẩu hiệu trước đây về cách mạng ruộng đất, tịch thu đất đai của đế quốc và địa chủ, phản bội lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, tô thuế vô lý, lãi suất cao. Khẩu hiệu thành lập chính quyền Xô Viết gồm công, nông dân và binh lính đã được thay thế bằng khẩu hiệu thành lập chính quyền dân chủ cộng hòa.
Phương thức đấu tranh cũng được cập nhật bằng cách chuyển từ đấu tranh vì dân sinh, dân chủ sang lật đổ chính quyền đế quốc và quân tay sai – những kẻ ủng hộ nó. Các hoạt động hợp pháp và bán hợp pháp đã được thay thế bằng các hoạt động bí mật, bất hợp pháp nhằm che dấu kỹ hoạt động, hướng đi của tổ chức đảm bảo an toàn, đem lại thắng lợi hiệu quả. Ngoài ra, hội nghị này còn đề nghị thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống đế quốc Đông Dương để thay thế Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Kết luận, hội nghị Ban chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939 đã đánh dấu sự trưởng thành của Đảng. Hội nghị thực hiện cụ thể hóa con đường cứu nước, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc.
2. Nội dung Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng 11/1939
Sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp ở Đông Dương đã tiến hành khủng bố Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như các đoàn thể quần chúng.
Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939 đã được họp trong vòng 3 ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939. Mục tiêu của cuộc họp này nhằm giải quyết các vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng trong tình hình mới.
Hội nghị được tổ chức bởi sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ với sự góp mặt của nhiều đồng chí khác tiêu biểu như đồng chí Võ Văn Tần, đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn,… Hội nghị này đã được tổ chức tại Bà Điểm, Hóc Môn.
Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939 với mục đích nhằm đến phân tích tính chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Qua phân tích, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến giữa hai khối đế quốc nhằm phân chia lại thị trường thuộc địa thế giới. Trong đó, khởi xướng của sự bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai chính là khối đế quốc phát xít bao gồm Đức, Ý, Nhật thực hiện nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh vào Liên Xô. Đây được đánh giá là một cuộc chến đau thương, tai họa, là cái lò sát sinh lớn, nhân loại phải chịu kiếp vô cùng thê thảm.
Hội nghị bày tỏ rõ ràng quan ngại về tình hình Đông Dương, cảnh báo chiến tranh sẽ dẫn đến một cuộc thảm sát chưa từng có và phát xít Nhật sẽ xâm chiếm khu vực, khiến Pháp phải đầu hàng Nhật Bản. Chế độ cai trị ở Đông Dương có đặc điểm là thực dân phát xít quân sự, tham lam và tàn ác hơn. Hội nghị đã phân tích thái độ của từng giai cấp trong xã hội, xu hướng chính trị của các đảng phái, tôn giáo và kết luận rằng mối quan hệ giữa các thế lực của các giai cấp như sau: “Một bên là Đế quốc Pháp nắm giữ mọi quyền lực kinh tế, chính trị, dựa vào các vua chúa tham nhũng và lũ chó săn phản bội dân tộc, mặt khác toàn bộ các dân tộc bản địa đều bị đế quốc Pháp áp bức như trâu ngựa, bị bóc lột một cách tàn nhẫn. quần chúng rất nhanh rơi vào tình trạng khổ cùng, quẫn bách, tổn thất nặng nề tạo sự căm phẫn trong nhân dân. Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị do chiến tranh đế quốc gây ra lần này sẽ châm ngòi cho sự bùng nổ của cách mạng Đông Dương”. Sau khi phân tích rõ những mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, Hội nghị ban chấp hành TW Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và quân tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”.
Tại Hội nghị, nhiệm vụ chủ yếu hướng đến là đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, giành độc lập dân tộc được nhấn mạnh. Để đạt được điều này, hội nghị Ban chấp hành TW Đảng đã đề nghị bỏ khẩu hiệu cách mạng ruộng đất mà thay vào đó là khẩu hiệu “đăng ký đất đai của địa phương”. Hội nghị cũng làm rõ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chính là chống chủ nghĩa đế quốc và chống nổi dậy. Đồng thời qua đó cũng muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chống chủ nghĩa đế quốc. Hội nghị thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống đế quốc Đông Dương, đoàn kết công nhân và nông dân. Đây là “hai lực lượng chủ yếu của cách mạng”, là lực lượng nòng cốt của cuộc khác chiến, để đấu tranh chống đế quốc và tay sai – những kẻ ủng hộ chúng. Việc thành lập một nước cộng hòa dân chủ được đặt lên hàng đầu làm mục tiêu mới.
Các phương pháp cách mạng cũng được thảo luận, hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi quyền sống, dân chủ cho nhân dân sang trực tiếp lật đổ chính quyền đế quốc và quân tay sai của chúng bằng các hoạt động bí mật, bất hợp pháp nhằm hỗ trợ thuận lợi nhất cho công cuộc cách mạng chống lại chính quyền đế quốc và quân tay sai. Công tác xây dựng Đảng cũng được chú trọng, với những nguyên tắc và các biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ củng cố Đảng hoàn thiện về mọi mặt. Đảng được kêu gọi phải giao tiếp chặt chẽ với quần chúng, trang bị lý luận cách mạng và thực hiện tự phê bình. Nghị quyết của Trung ương Đảng tháng 11 năm 1939 đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận và phương pháp cách mạng của Đảng. Nó thể hiện sự nhạy bén chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng, làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Có thể nói một cách tóm gọn, nội dung của Hội nghị ban chấp hành TW Đảng 11/1939 như sau:
– Thứ nhất, hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và bọn tay sai, dành lại độc lập hoàn toàn cho Đông Dương.
– Thứ hai, về chủ trương cách mạng tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ tay sai chia cho dân cày nghèo. Lập Chính phủ dân chủ cộng hòa.
– Thứ ba, mục tiêu và phương pháp đấu tranh chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ đế quốc và tay sai. Hoạt động từ hợp pháp, nửa hợp pháp sang bí mật và bất hợp pháp.
– Thứ tư, thực hiện chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
3. Ý nghĩa Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng 11/1939
Ý nghĩa to lớn của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939 chính là việc đánh dấu bước chuyển biến quan trọng bằng việc ưu tiên giải phóng dân tộc, vận động nhân dân cứu nước. Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1939 đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị mong muốn đưa nhân dân ta bước vào thời kì trực tiếp vận động cứu nước. Hội nghị đã tạo ra một ý nghĩa quan trọng, là cái nôi để tiếp sức cho sự phát triển tiền thân Đảng cộng sản Việt Nam hiện đại, nó cũng là góp phần củng cố đưa ra các phương án chiến lược nhằm góp phần vào các trận chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước sau này.
Như vậy, với cuộc họp Ban chấp hành TW Đảng chỉ trong 3 ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã đề ra được nhiều vấn đề, thể hiện hướng đi rõ ràng, những phân tích, chiến lược đề ra nhằm phục vụ tốt nhất cho trận chiến giải phóng dân tộc sau này.