Giới thiệu về Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp? Nội dung Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp? Tiến bộ và hạn chế của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp (Déclaration des droits de l'Homme et du citoyen)?
Nhân quyền (hay quyền con người) là những quyền tự nhiên của con người có từ lúc sinh ra tới lúc đã chết đi và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai hay bất cứ chủ thể nào. Còn Dân quyền (hay Quyền công dân) là tình trạng của một người được công nhận theo các điều kiện Pháp lý để trở thành thành viên hợp pháp của một Quốc gia có chủ quyền. Tại Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp đã thể hiện về hai quyền cơ bản của con người. Đây là một văn kiện pháp lý có ý nghĩa quan trọng cho nhân loại
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh ra đời của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp:
Vào ngày 17/6/1789, các đại biểu Đẳng cấp thứ ba tự họp thành Hội đồng dân tộc, sau đó tuyên bố là Quốc hội lập hiến, có quyền soạn thảo Hiếp pháp, thông qua các đạo luật về tài chính. Nhà vua và quý tộc Pháp đã dùng quân đội để uy hiếp Quốc hội, Quần chúng lao động và những người cách mạng tự vũ trang chống lại nhà vua.
Ngày 14 tháng 7, quần chúng được vũ trang kéo đến tấn công chiếm pháp đài- nhà tù Ba- xti, đây chính là thắng lợi mở đầu cho thắng lợi của Cách mạng tư sản Pháp và nhanh chóng lan rộng khắp toàn nước Pháp.
Đến tháng 8 năm 1789, Quốc hội Pháp thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.
2. Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp:
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền gồm 17 điều, với nội dung các Điều như sau:
“1. Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép thành lập trên cơ sở nó đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng.
2. Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người. Những quyền này là tự do, sở hữu tài sản, an ninh và chống lại sự áp bức.
3. Các nguyên tắc chủ quyền có nguồn gốc từ Quốc gia. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể thực hiện quyền mà không xuất phát từ nguyên tắc đó.
4. Tự do bao gồm khả năng làm bất cứ điều gì mà không gây hại cho người khác. Như thế, việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi cá nhân chỉ bị giới hạn sao cho các cá nhân khác trong xã hội cũng được hưởng những quyền tương tự. Những giới hạn này được quy định duy nhất bằng luật pháp.
5. Luật chỉ có quyền cấm những hành vi gây bất lợi cho xã hội. Bất cứ hành vi nào không bị pháp luật cấm thì cũng không được phép ngăn cản, và không ai bị bắt buộc phải làm điều mà pháp luật không yêu cầu. Luật pháp phải thể hiện mong ước chung của cộng đồng. Tất cả các công dân đều có quyền đóng góp, trực tiếp hay qua đại diện của họ, để tạo ra luật pháp. Luật pháp phải giống nhau với mọi đối tượng, cho dù nó bảo vệ hay trừng phạt.
6. Luật pháp phải thể hiện mong ước chung của cộng đồng. Tất cả các công dân đều có quyền đóng góp, trực tiếp hay qua đại diện của họ, để tạo ra luật pháp. Luật pháp phải giống nhau với mọi đối tượng, cho dù nó bảo vệ hay trừng phạt. Tất cả các công dân, bình đẳng trước con mắt của luật pháp, phải có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào tất cả các văn phòng quan trọng, các vị trí và chức vụ công, theo khả năng của họ và không có gì phân biệt ngoại trừ phẩm chất và tài năng.
7. Không ai có thể bị truy tố, bắt giữ hay giam cầm ngoại trừ trường hợp được quyết định bởi pháp luật, tuân thủ theo nguyên tắc mà pháp luật đã quy định. Những người theo đuổi, phát tán, thực thi hoặc gây áp lực thực thi các mệnh lệnh tùy tiện phải bị trừng phạt; nhưng bất kỳ công dân nào được gọi, bị bắt giữ theo quy đinh pháp luật, phải tuân thủ ngay tức khắc; anh / chị ta sẽ bị coi là có tội nếu chống lại.
8. Luật pháp chỉ được phép đưa ra những hình phạt cần thiết thực sự và không thể tranh cãi; và không ai bị trừng phạt nếu không có một điều luật đã được thành lập và công bố trước khi người đó phạm tội, và có thể áp dụng hợp pháp.
9. Bởi vì mọi con người đều được coi là vô tội cho tới khi anh / chị ta bị tuyên bố có tội, nên khi cần thiết phải bắt giữ, mọi hành vi sử dụng vũ lực quá mức tối thiểu cần thiết để bắt và giam giữ người đó sẽ bị xử lý thích đáng.
10. Không ai bị đối xử tàn tệ vì quan điểm của người đó, ngay cả các quan điểm tôn giáo, miễn là việc trình bày các quan điểm đó không gây ra đổ vỡ hòa bình được thiết lập bởi luật pháp.
11. Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật.
12. Đảm bảo các quyền con người và của công dân cần tới các lực lượng công [cảnh sát, quân đội v.v..]. Những lực lượng này, do đó, được thành lập để phục vụ mục đích chung, và không phải để sử dụng riêng cho mục đích của những người mà công chúng tín nhiệm giao phó quyền lãnh đạo lực lượng.
13. Để duy trì các lực lượng công, và để chi trả chi phí quản lý, một [hệ thống] thuế chung là điều cần thiết. Thuế phải được chia sẻ một cách tương tự theo đầu các công dân, với tỷ lệ tương ứng với khả năng của họ.
14. Mọi công dân đều có quyền, tự mình hoặc qua đại diện của mình, kiểm tra tính cần thiết của thuế công. Họ cũng có quyền tự do chấp nhận thuế, giám sát thuế được sử dụng như thế nào, và quyết định mức thuế, các điều khoản cơ bản để đánh giá và thu thuế, cũng như khoảng thời gian mà mức thuế có hiệu lực. Bất kỳ xã hội nào mà các quyền [của con người và của công dân] này không được đảm bảo, và sự tản quyền không được thực hiện, sẽ không có Hiến pháp.
15. Xã hội có quyền yêu cầu công chức giải thích rõ công việc quản lý và giám sát của mình.
16. Bất kỳ xã hội nào mà các quyền [của con người và của công dân] này không được đảm bảo, và sự tản quyền không được thực hiện, sẽ không có Hiến pháp.
17. Tài sản, là một quyền thiêng liêng và không thể xâm phạm, không ai có thể bị tước đoạt tài sản; ngoại trừ điều đó là cần thiết cho cộng đồng, được điều tra hợp pháp, rõ ràng cần thiết, và bồi thường công bằng và đưa trước đã được trả cho người có tài sản bị tước đoạt.”
Như vậy, Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 đã ghi nhận về quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây chính là quyền cơ bản, là gốc rễ của các quyền khác trong bản Tuyên ngôn như quyền, quyền tự do làm những việc không gây hại cho ai, cho xã hội, quyền “không ai có thể bị truy tố, bắt giữ hay giam cầm”, quyền không bị đối xử tệ bạc, quyền tự do đóng góp ý kiến; quyền được bảo vệ thân thể khi bị bắt giữ,….
Bản Tuyên ngôn đã khẳng định về quyền sở hữu tài sản của mỗi cá nhân là quyền thiêng liêng, không thể xâm phạm, và không ai có thể bị tước đoạt tài sản.
Và Bản Tuyên ngôn đã để cập đến hoạt động quản lý xã hội, lực lượng công, thiết chế về thuế,…
Bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của cách mạng Pháp sau khi nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc cách mạng năm 1789 xóa bỏ chế độ phong kiến Pháp, thực hiện nền dân chủ tư sản. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta năm 1945.
Có thế thấy mặc dù đã ra đời từ rất lâu, nhưng bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp đã có hệ tư tưởng vượt bậc, đi trước thời đại, đặc biệt là về quyền con người được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn này được dùng làm cơ sở cho Công ước của Liên hợp quốc về nhân quyền. Thắng lợi của cách mạng tư sản pháp và sự ra đời của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền có ảnh hưởng tích cực, cổ vũ cho các mạng dân tộc trên thế giới, mở đường cho chủ nghĩa vô sản phát triển.
3. Tiến bộ và hạn chế của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp:
Tiến bộ của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789) khẳng định ngay tại điều đầu tiên là “Mọi người sinh ra đều có quyền sống tự do và bình đẳng; mọi sự phân biệt xã hội chỉ có thể đặt trên cơ sở lợi ích chung”. Tuyên ngôn tiến bộ vì đề cao quyền cơ bản của con người. Kể từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp thì xuất hiện bóc lột, áp bức, tầng lớp nông dân, công nhân, nô lệ bị bóc lột, áp bức một cách nặng thế. Trong hoàn cảnh đó, thì những tư tưởng về quyền tự do, bình đẳng đã được nảy nở từ hình thức sơ khai cho tới các trào lưu tư tưởng, lý luận. Có thể nhận thấy, trong thời kì ra đời, thì nước Pháp cũng đang chịu sự thống trị do nhà vua đứng đầu, mà trong bản Tuyên ngôn này đã đề cập đến quyền con người, quyền tự do của con người mà chưa một quốc gia nào ghi nhận trong một văn kiện nhất định.
Hạn chế của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
Tuy có những tiến bộ vượt bậc, nhưng bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền bộc lộ tính chất tư sản và sự hạn chế của nó, khi qui định:
“Tài sản, là một quyền thiêng liêng và không thể xâm phạm, không ai có thể bị tước đoạt tài sản; ngoại trừ điều đó là cần thiết cho cộng đồng, được điều tra hợp pháp, rõ ràng cần thiết, và bồi thường công bằng và đưa trước đã được trả cho người có tài sản bị tước đoạt” (Điều 17).
Như thế là Tuyên ngôn đã phủ nhận quyền bình đẳng xã hội thực sự giữa người và người, hợp pháp hóa sự bất bình đẳng về tài sản và sự bóc lột của người có của đối với người không có tài sản. Từ quy định này, nhận thấy bản tuyên ngôn bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền lợi của tư bản chủ nghĩa, mà không bảo vệ các tầng lớp khác trong xã hội.