Nợ chắc hẳn là một thuật ngữ đã khá quen và được sử dụng rất phổ biến. Căn cứ vào nhiều tính chất và hình thức khác nhau mà có nhiều cách để phân loại nợ. Một trong số đó chúng ta sẽ cần phải kể đến nợ không có bảo đảm và nợ có đảm bảo. Vậy nợ không có bảo đảm là gì? Phân biệt nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm?
Mục lục bài viết
1. Nợ không có bảo đảm là gì?
1.1. Tìm hiểu về nợ:
Nợ được hiểu là số tiền một cá nhân, công ty hay các chủ thể khác đã vay người khác. Các khoản nợ thường hay phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hóa, dịch vự hoặc tài sản chính. Các chứng chỉ nợ là bằng chứng để lấy lại số tiền cho vay, bao gồm cả lãi suất trong thời hạn vay.
Các hình thức nợ bao gồm:
Hiện nay, cũng có nhiều kiểu nợ khác nhau, tuy nhiên nợ có bốn kiểu cơ bản là: vay nợ, nợ tập đoàn, trái phiếu và giấy hẹn trả tiền. Các khoản nợ có giá trị lớn thường được đảm bảo bằng các khoản thế chấp hoặc lãi suất chứng khoán của tài sản người đi vay, trong đó người cho vay có thể có một số quyền hạn nhất định đối với tài sản đó khi người đi vay không có khả năng trả nợ hay vỡ nợ.
– Kiểu vay nợ cơ bản được xem là hình thức đơn giản nhất của nợ. Nó bao gồm một bản thoả thuận về việc cho vay một lượng tiền trong một khoảng thời gian nhất định và ghi rõ thời hạn hoàn lại số tiền đó. Trong vay thương mại còn có thêm lãi suất. Lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng số tiền cho vay hàng năm. Lãi suất cũng được trả vào ngày theo thoả thuận.
– Nợ tập đoàn được hiểu là khoản nợ được cung cấp cho các công ty muốn vay số tiền nhiều hơn những người cho vay đơn lẻ và chịu rủi ro trong phạm vi vay đơn lẻ đó. Số tiền vay thường lên tới hàng triệu đô la Mỹ. Trong trường hợp này, mỗi tập đoàn ngân hàng có thể đồng ý đưa ra một tỷ lệ lãi suất trên tổng số tiền cho vay.
– Trái phiếu là một chứng khoán nợ được phát hành bởi công ty hoặc chính phủ. Người sở hữu trái phiếu sẽ được hoàn trả số tiền mua trái phiếu gốc cộng thêm lãi suất. Trái phiếu được phát hành cho các nhà đầu tư tại thị trường mà tổ chức phát hành muốn vay tiền. Trái phiếu có thời hạn xác định thường là một số năm; có những loại trái phiếu dài hạn trên 30 năm, tuy nhiên loại này không phổ biến. Đến kỳ hạn thanh toán, số tiền mua trái phiếu sẽ được trả đầy đủ cho nhà đầu tư và phần lãi suất. Lãi suất có thể được trả vào cuối kỳ hạn hoặc được trả theo giai đoạn. Trái phiếu có thể được giao dịch trên thị trường trái phiếu. Trái phiếu được các nhà đầu tư coi là một hình thức đầu tư tương đối an toàn hơn cổ phiếu.
– Giấy hẹn trả tiền cũng giống như giấy xác nhận khả năng trả nợ trong kế toán, là một bản thoả thuận trong đó nêu rõ sự cam kết của bên vay nợ đối với bên cho vay về nghĩa vụ trả một số tiền nhất định. Nghĩa vụ đó có thể phát sinh thêm khi trả nợ vay hoặc phát sinh từ các hình thức vay nợ khác.
Ví dụ cụ thể như trong kinh doanh, giá mua bán có thể bao gồm giá của những khoản thanh toán ngay và của những khoản hẹn trả sau. Những nội dung trong giấy hẹn trả tiền bao gồm số tiền chính phải thanh toán, lãi suất và ngày hạn trả tiền. Bên cạnh đó, giấy hẹn trả tiền cũng có thể có những điều khoản quy định về quyền của người cho vay trong trường hợp người vay bị vỡ nợ bao gồm cả việc tịch thu tài sản thế chấp. Đối với các khoản vay cá nhân, giấy hẹn trả nợ thường là bản viết tay có chữ ký của hai bên để thuận lợi cho việc tính thuế và làm chứng từ lưu giữ.
– Ngoài ra còn có Giấy hẹn trả nợ theo yêu cầu là một loại giấy hẹn trả nợ nhưng trong đó không xác định chính xác ngày đến hạn trả nợ mà phụ thuộc vào yêu cầu của người cho vay. Thông thường người cho vay sẽ thông báo cho người vay một số ngày trước khi đến hạn trả n
1.2. Nợ không có bảo đảm:
Định nghĩa nợ không có bảo đảm:
Nợ không có bảo đảm được hiểu cơ bản là khoản nợ mà không được đảm bảo bằng tài sản hiện vật, nghĩa là nó chỉ được sử dụng để nhằm mục đích thực hiện thanh toán các khoản chi tiêu thường xuyên.
Nói cách khác, một khoản nợ không được bảo đảm bởi bất kì tài sản thực nào được gọi là nợ không có bảo đảm.
Nếu khoản nợ được dùng để mua tài sản hiện vật hay tài chính, thì khoản nợ sẽ được đảm bảo bằng tài sản đó, vì khi cần người ta có thể bán nó để trả nợ. Ngược lại, các khoản nợ không có bảo đảm chỉ được sử dụng để làm tăng thu nhập thường xuyên và do vậy không tạo ra tài sản nào để đảm bảo cho nó.
Nợ đầu tư vào chiến tranh hoặc phòng ngừa chiến tranh được coi là khoản nợ không có bảo đảm.
Nợ không có bảo đảm trong tiếng Anh là gì?
Nợ không có bảo đảm trong tiếng Anh là Deadweight Debt.
2. Phân biệt nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm:
Về nợ, có hai loại chính cụ thể đó là: nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm. Biết được sự khác biệt rất quan trọng trong việc vay tiền, ưu tiên cho các khoản nợ của các chủ thể trong thời gian hoàn vốn và đảm bảo giữ tài sản của các chủ thể đó.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm là sự có mặt của tài sản thế chấp.
Ta hiểu về nợ có bảo đảm như sau:
Đối với công cụ nợ có bảo đảm, trong trường hợp vỡ nợ, tài sản của các chủ thể là những người đi vay được sử dụng nhằm mục đích chính đó là để hoàn trả nghĩa vụ nợ.
Các khoản nợ có bảo đảm thông thường là các khoản vay thế chấp và vay mua xe. Khi một cá nhân hoặc một doanh nghiệp nhận được khoản vay thế chấp, tài sản được đề cập sẽ được sử dụng làm tài sản bảo đảm. Nếu cá nhân hoặc doanh nghiệp không thể hoàn trả khoản thế chấp theo thoả thuận, ngân hàng có quyền tịch thu tài sản.
Điều này cũng đúng với các khoản vay mua xe. Nếu các điều khoản của khoản vay không được đáp ứng, các chủ thể là những người cho vay có thể lấy lại xe và bán nó để trả hết khoản vay.
Các khoản nợ có đảm bảo gắn với tài sản được xem xét thế chấp tài sản. Các chủ thể là người cho vay thực hiện quyền giữ tài sản, cho họ quyền nhận tài sản nếu người vay tiền bị chậm trễ trong việc thanh toán.
Nếu người cho vay phải lấy tài sản của người vay tiền vì người vay tiền đã trở nên quá trễ, tài sản sẽ được bán. Và, nếu giá bán của tài sản không đủ để trả nợ, người cho vay có thể theo đuổi người vay vì sự khác biệt.
Khoản vay thế chấp của người vay tiền được bảo đảm bởi nhà của người vay tiền. Tương tự, khoản vay tự động của người vay tiền sẽ được bảo đảm bởi chiếc xe của người vay tiền. Nếu người vay tiền trở nên quá trễ trong việc trả nợ vay, người cho vay có thể tịch thu hoặc lấy lại tài sản. Một khoản vay chủ quyền cũng là một loại nợ có bảo đảm bởi vì các chủ thể đó đã buộc chiếc xe của mình vào khoản nợ.
Các chủ thể không bao giờ sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với khoản nợ có bảo đảm cho đến khi khoản vay đã được trả hết. Sau đó, các chủ thể cũng có thể yêu cầu người cho vay tiết kiệm tài sản và cung cấp cho người vay tiền một cái tên không có bất kỳ khoản thế chấp nào.
Ta hiểu về nợ không có bảo đảm như sau:
Ngược lại, nợ không có bảo đảm không có sự hỗ trợ về tài sản thế chấp. Nếu người vay không trả được khoản nợ này, người cho vay phải khởi kiện để thu nợ.
Do việc đầu tư được hỗ trợ bởi độ tin cậy và tín dụng của tổ chức phát hành, nợ không có bảo đảm sẽ mang lại rủi ro lớn hơn đối với người cho vay. Điều này dẫn đến việc lãi suất vay của các khoản nợ không có bảo đảm thường cao hơn lãi suất của các khoản nợ có bảo đảm.
Với khoản nợ không có bảo đảm, các nhà cho vay không có quyền nợ. Nếu người vay tiền bỏ sót vào khoản thanh toán của mình, họ thường không thể lấy bất kỳ tài sản nào của bạn để trả nợ. Người cho vay có thể thực hiện các hành động khác để buộc bạn trả nợ nần. Ví dụ, họ sẽ thuê một người thu nợ để dỗ bạn trả nợ. Nếu điều đó không thành công, người cho vay có thể kiện người vay tiền và yêu cầu tòa án trang bị lương bổng, lấy tài sản, hoặc giữ quyền sở hữu tài sản của người vay tiền cho đến khi người vay tiền trả nợ.
Nợ thẻ tín dụng được xem là khoản nợ không có bảo đảm lớn nhất. Các khoản nợ không có bảo đảm khác bao gồm khoản vay của sinh viên, khoản vay trả trước, hóa đơn y tế và hỗ trợ nuôi con theo lệnh của tòa án.