Mỗi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta đều được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh qua bộ não của chúng ta. Nhận thức thuộc tính bên ngoài và bên trong sự vật, hiện tượng đó, gọi là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Vậy nhận thức cảm tính là gì? Nhận thức lý tính là gì?
Mục lục bài viết
1. Nhận thức cảm tính là gì?
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên của con người. Thông qua cảm giác và tri giác, nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính bên ngoài gọi là trực quan sinh động tác động đến giác quan của họ gồm cảm giác và tri giác. Bởi vậy, để nắm bắt được sự vật, sự việc, con người phải sử dụng các loại giác quan của mình.
Đặc điểm của nhận thức cảm tính:
– Phản ánh cụ thể thuộc tính của sự vật, hiện tượng thông qua giác quan riêng lẻ. Tuy nhiên, trạng thái sự vật, hiện tượng nảy sinh, tác động vào giác quan chưa phản ánh được đầy đủ, trọn vẹn thuộc tính bên trong sự vật, hiện tượng, mỗi kích thích tác động vào giác quan chỉ cho ta một cảm giác tương ứng;
– Nhận thức cảm tính cũng có thể phản ánh trong tâm lý của động vật;
– Phản ánh bề ngoài, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, cái có bản chất và cái không bản chất. Phản ánh các thuộc tính cốn có trong tự nhiên của sự vật, hiện tượng và các thuộc tính của sự vật, hiện tượng do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và giao tiếp;
– Nhận thức cảm tính chỉ là mức độ đầu tiên, sơ đẳng, chưa phải cao nhất, nhận thức con người phát triển mạnh mẽ và phong phú còn chịu ảnh hưởng của nhiều hiện tượng tâm lí khác. Cho nên, nhận thức cảm tính chưa thể khẳng định được các mặt, các mối quan hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật.
Ví dụ, khi chúng ta đến nhà hàng ăn uống, nhân viên phục vụ bê lên một đĩa thức ăn rất hấp dẫn, ngon miệng và khiến bạn có cảm giác muốn ăn ngay lập tức. Khi đó, nhận thức cảm tính khi nhìn thấy đĩa thức ăn rất ngon, rất muốn ăn. Hay khi nhìn thấy một bạn nữ xinh xắn, dễ thương thì nhận thức cảm tính đánh giá vẻ bề ngoài bạn nữ này rất đẹp.
Ví dụ khác: Bằng nhận thức cảm tính, người đầu bếp có kinh nghiệm nghề nghiệp có thể bằng mắt nêm nếm gia vị, hay giáo viên có thể biết được ý thức học tập của học sinh sau lưng mình.
2. Các hình thức của nhận thức cảm tính:
Nhận thức cảm tính gồm có các hình thức sau:
– Cảm giác: Đây là một hình thức nhận thức cảm tính đầu tiên của con người, phản ánh về các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng có sự tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác chính là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, từ cảm giác tạo nên mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và môi trường xung quanh. Hay nói cách khác, cảm giác chính là kết quả của sự chuyển hóa những nguồn năng lượng kích thích từ bên ngoài để hình thành các yếu tố ý thức.
+ Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não, nhờ đó hoạt động thần kinh của con người được bình thường. Trạng thái tâm lý và sinh lý của con người ảnh hưởng nhiều bởi cảm giác.
VD: Khi chúng ta chạm tay vào cốc nước nóng, bàn tay sẽ có cảm giác nóng và tay chạm vào có phản ứng co lại ngay. Hay khi ra ngoài trời nắng, mắt ta sẽ phản ứng nheo lại.
– Tri giác: hình thành và phát triển trên cơ sở cảm giác. Hình thức nhận thức cảm tính này phản ánh vào các giác quan của con người tương đối toàn vẹn về sự tác động trực tiếp của sự vật. Tri giác chính là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn và phong phú hơn, cảm giác chỉ phản ánh riêng lẻ các thuộc tính bên ngoài của sự vật hiên tượng còn tri giác phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Tri giác cũng chỉ phản ánh thuộc tính trực quan qua quá trình tâm lý có nảy sinh, diễn biến và kết thúc. Trong tri giác có chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và cả thuộc tính không đặc trưng có tính trực quan của sự vật, hiện tượng.
Trong môi trường xung quang, tri giác định hướng cho hành vi của con người, mang tính tự giác, kết hợp cả cảm giác và vận động. Hình thức tri giác cao nhất là quan sát, tương đối độc lập của hoạt động và trở thành phương pháp nghiên cứu trong khoa học và nhận thức thực tiễn.
Ví dụ: Khi chúng ta xem một bức tranh, thông qua các giác quan sẽ nhận biết được bức tranh vẽ về cảnh gì, tranh làm bằng chất liệu gì và có những màu sắc tổng thể gì, có những hình thù gì, … Sự phản ánh này diễn ra trong quá trình tri giác của con người.
Biểu tượng: Là hình thức của nhận thức cảm tính khi sự vật đã không còn tác động trực tiếp vào các giác quan nữa thì các hình ảnh, biểu tượng về các sự vật phản ánh tương đối hoàn chỉnh do sự hình dung lại, nhớ lại. Trong biểu tượng vừa chứa đựng các yếu tố trực tiếp cũng vừa chứa đựng các yếu tố gián tiếp. Bởi biểu tượng được hình thành là nhờ có sự phối hợp, bổ sung của các loại giác quan với nhau và có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp của nhận thức. Cho nên biểu tượng có thể phản ánh được những thuộc tính đặc trưng, nổi trội của các sự vật mà khi nhắc đến sự vật, hiện tượng đó sẽ nhớ ngay đến biểu tượng của chúng.
Ví dụ: Khi nhắc đến chiếc ô tô, chúng ta sẽ lập tức hình dung ra được nó là phương tiện có bốn bánh làm bằng cao su, thân xe hình chữ nhật, có bốn cửa ra vào.
3. Nhận thức lý tính là gì?
Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao của con người, phản ánh thực chất bên trong, bản chất của sự vật, sự việc bằng tư duy trừu tượng. Thông qua các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận có thể phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát về sự vật, về những mối quan hệ có tính quy luật của hiện thức khách quan.
Thông qua việc tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật mà hình thành khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, và thường xuyên vận động, phát triển trên cơ sở thực tiễn. Trong nhận thức thì khái niệm có vai trò rất quan trọng tác động tới bộ nào con người, là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
Ví dụ: khi gặp gỡ một người nào đó, vẻ bề ngoài của họ là cái đầu tiên bạn nhận thấy người đó xấu hay đẹp, đây là nhận thức cảm tính. Nhưng qua việc nói chuyện, bạn chuyển qua suy nghĩ về tính cách, phẩm chất của người đó như thế nào, đó chính là nhận thức lý tính.
Ví dụ khác: Thời điểm nhà nước chưa ra đời, thì nhà nước điều chỉnh mọi vấn đề của xã hội bằng quy phạm đạo đức hay cảm tính. Tuy nhiên, khi nhà nước ra đời và pháp luật được ban hành dưới hình thức mệnh lệnh, bắt buộc trở thành quy tắc xử xự chung theo mong muốn, ý chí của nhà nước, điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của người dân theo nhận thức lý tính hơn.
Đặc điểm của nhận thức lý tính:
+ Nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng. Bằng nhận thức cảm tính, con người nhận thức sự vật hiện tượng thông qua việc sử dụng công cụ, phương tiện như đồng hồ, máy móc, … và quá trình tư duy (phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, …) để nhận thức cái bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng đó.
+ Nhận thức lý tính là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng, không đơn thuần là nhận thức của con người ở thời điểm hiện tại mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.
+ Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự bên trong của sự vật. Như vậy, nhận thức lý tính phản ánh sự vật, hiện tượng rõ ràng hơn, khách quan và đầy đủ hơn.
4. Các hình thức của nhận thức lý tính:
Có hai hình thức chính của nhận thức lý tính là phán đoán và suy luận:
– Phán đoán:
+ Phán đoán một thuộc tính của đối tượng là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để đưa ra sự khẳng định hay phủ định về một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng đó. Phán đoán chỉ biết được cái đơn nhất với cái phổ biến mà chưa thực sự mối quan hệ đặc thù giữa cái đơn nhất với cái phổ biến đó. Tư duy phản ánh thuộc tính bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. Tư duy là sản phẩm của sự phát triển xã hội – lịch sử, hành động tư duy dựa vào kinh nghiệm, kết quả nhận thức xã hội mà con người tích lũy. Quá trình tư duy thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội, ý nghĩ của con người về việc giải quyết nhiệm vụ cấp thiết.
+ Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách riêng lẻ như cảm giác hay tổng quát như tri giác, tư duy là nhận thức trừu tượng, bản chất của sự vật, hiện tượng một cách khái quát. Trên cơ sở nhận thức cảm tính, tư duy là mức độ nhận thức cao hơn, tư duy nhận ra sự vật, hiện tượng có vấn đề, có mâu thuẫn. Nhận thức tư duy của mỗi người sẽ khác nhau về sự vật, hiện tượng đó và mỗi người cũng tư duy về các giải pháp phụ thuộc vào kinh nghiệm, nhận thức khác nhau mà giải quyết vấn đề khác nhau.
+ Các giai đoạn trong quá trình tư duy là một quá trình phức tạp. Các thao tác tư duy của cá nhân là phân tích- tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa. Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân tích những thuộc tính, những mối liên hệ để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn. So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau và khác nhau, những dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng. Trừu tượng hóa và khái quát hóa là dùng trí óc để giữ lại những thuộc tính, những mối liên hệ có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi phối bổ sung cho nhau và gạt bỏ những mối quan hệ thứ yếu, không cần thiết.
Ví dụ: Ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm phán đoán khi nhìn thấy phía bầu trời ửng sáng vàng như màu mỡ gà thì có thể phán đoán được trời sắp có mưa lớn.
– Suy luận:
Suy luận chính là hình thức tư duy trừu tượng mà thể hiện sự liên kết giữa các phán đoán lại với nhau để từ đó có thể rút ra được một phán đoán có tính chất kết luận nhằm tìm ra một tri thức mới.
Ví dụ: Nếu nhà nước để cho các công ty bán xăng dầu tự định giá bán xăng dầu thì giá sẽ rất cao và gây ảnh hưởng đến quyền lợi cho người dân, lạm phát và nhiều hệ lụy khác về tiêu dùng. Chính vì vậy suy luận rằng nhà nước phải kiểm soát giá và định giá trần về kinh doanh xăng dầu, công ty muốn tranh giành thì có thể phân phối thấp hơn mức giá trần đó.