Mục lục bài viết
1. Sự hình thành và suy vong của nhà nước Văn Lang:
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT), chính sử Ngô Sĩ Liên vào thế kỷ 15 đã viết rằng: Đế Minh, dòng dõi Thần Nông, sinh ra Lộc Tục hay Kinh Dương Vương, lấy con gái của Long Vương Động Đình Hồ và sinh ra Lạc Long Quân (theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là cháu đời thứ 5 của Thần Nông). Về sau, Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai, 50 người theo cha Lạc Long Quân ra biển Đông, 50 người theo mẹ lên núi, thờ anh cả làm vua tên hiệu là Hùng Vương, đặt nước là Văn Lang, đóng đô Bạch Hạc – Phú Thọ.
Theo truyền thuyết này, Kinh Dương Vương trị vì nước Xích Quỷ vào khoảng năm 2879 TCN, sinh ra một người con trai là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi tuyết (Âu Việt) và 50 người con theo cha xuống biển (Lạc Việt). Hùng Vương, con trưởng của Lạc Long Quân, cai quản đất nước Văn Lang (bộ lạc Lạc Việt), trải qua các đời vua Hùng, đến năm 258 TCN thì kết thúc. (tức thế kỉ III TCN) do An Dương Vương (bộ tộc Âu Việt). Dương Vương thống nhất hai bộ tộc lấy tên là Âu Lạc. Do đó, nhiều người cho rằng Nước Văn Lang ngày nay của Vương triều Hùng Vương đã ra đời cách đây hơn 4000 năm, và thường được nhắc đến như một nền văn hiến 4000 năm trong sách báo.
Tuy nhiên, theo các tài liệu lịch sử xuất hiện sớm hơn Đại Việt Sử Ký, Tư Liệu Đại Việt Sử Ký vào thế kỷ 13, thì nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh của bộ tộc Văn Lang và ông đã chinh phục các bộ tộc Bách Việt phân biệt vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN. Đồng thời là vua Chu Trang Vương nhà Chu của Trung Quốc. Ông lên ngôi xưng Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang và lập kinh đô Văn Lang. Về sau, các sử gia Trung Quốc đã ảnh hưởng đến các sử gia nước ta nên gọi kinh đô thời Văn Lang là Phong Châu. Trong lịch sử Việt Nam, những dòng sau đây là dành riêng cho các vua Hùng.
“Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 – 682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút.”
Vào khoảng cuối thời Hồng Bàng, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) và Đại Việt Sử Ký, vì vua Thục nhiều lần đánh Văn Lang, nhưng vì quân mạnh, ai cũng đánh thua nên vua Hùng ngày càng chủ quan, không lo chuyện triều chính, quân sự. Trong cung ngày ngày chỉ đơn giản là uống rượu và tiệc tùng cho vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục Phán ra đánh, vua còn đang say thì quân Thục tiến đến vua nhảy xuống giếng tự tử, quân sĩ đầu hàng. Thục Vương tiếp quản đất nước, thống nhất và thành lập nước Âu Lạc.
2. Sự hình thành và suy vong của nhà nước Âu Lạc:
Theo hai tài liệu lịch sử là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (thế kỷ 15) và Đại Việt Sử Ký (thế kỷ 13), nước Âu Lạc do Thục Phán (thủ lĩnh bộ tộc Âu Việt) thành lập năm cuối thế kỷ 19, khoảng năm 208 trước Công nguyên. sau khi đánh bại vị vua cuối cùng của nước Văn Lang, ông lên ngôi, hiệu là An Dương Vương.
Sách Cổ Đường (sau là Tấn – Lưu Hú biên soạn, 945 SCN), Quyển 1, Chí 21, Địa lý, chỉ Nam Việt chí (thời Lưu Tống, 420 – 479)có ghi lại tương tự:
“Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc”.
Tuy nhiên, theo một ghi chép lịch sử được viết bởi Tư Mã Thiên (Hán quan) vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, người ta viết rằng vào năm 218 trước Công nguyên hoàng đế nhà Hán. Nước Tần – Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân sang đánh các tộc Việt ở phía nam. Người Việt cử người thiện cảm cầm quân đánh quân Tần và giành thắng lợi – tướng Đồ Thư bại trận, bị tiêu diệt nên căn cứ vào Sử ký Tư Mã Thiên, thời điểm hình thành nước Âu Lạc muộn hơn năm 218 TCN sau đó.
Thục Phán đã đánh bại vua Hùng thứ 18 của nhà nước Văn Lang, sau đó sáp nhập lãnh thổ của bộ tộc mình là tộc Âu Việt với lãnh thổ của Lạc Việt. Từ đó hình thành nên một nhà nước mới chính là nhà nước Âu Lạc (Âu trong Âu Việt và Lạc trong Lạc Việt).
Vùng Âu Lạc bao gồm lãnh thổ của bộ lạc Âu Việt trước đây ở phía bắc nơi nay là miền nam tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) và vùng Lạc Việt ở phía bắc Việt Nam. Âu Lạc có biên giới phía Bắc là sông Tả Giang (Quảng Tây), phía Nam là dãy Hoành Sơn thuộc Hà Tĩnh ngày nay.
Theo hai tài liệu lịch sử, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (viết vào thế kỷ 15) và Đại Việt Sử Ký (viết vào thế kỷ 13), vương quốc Âu Lạc đã kết thúc vào năm 208 TCN. sau khi An Dương Vương đánh bại Triệu Đà. Tần quan ở Quảng Đông, Trung Quốc) bị đánh bại và gia nhập.
Tuy nhiên, theo Sử ký Tư Mã Thiên (tiếng Hán) (thế kỷ 1 TCN) lại chép rằng Triệu Đà chinh phục Tây Âu Lạc (vùng đất Tây Âu Lạc) ngay sau khi hoàng thái hậu là Lữ Hậu chết, Lữ Hậu chết năm 180 TCN, nên một số sách hiện đại cũng nói Âu Lạc thất thủ năm 179 TCN.
3. Điểm giống nhau của hai nhà nước này:
Vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN, trên cơ sở sự phát triển rực rỡ của văn hóa Đông Sơn, nhà nước đầu tiên ra đời là nhà nước Văn Lang với Phong Châu (Việt Trì, Phú Thọ ngày nay) là kinh đô. Khoảng thế kỷ III TCN, khi nhà nước Văn Lang dần suy yếu, Thục Phán An Dương Vương đã hợp nhất người Âu Việt và người Lạc Việt thành người Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa (nay là Hà Nội). Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang – Âu Lạc được phản ánh trong truyền thuyết, sách cổ Việt Nam, sách cổ Trung Quốc… và qua nhiều di tích, lễ hội ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (tập trung nhiều nhất ở Phủ). Thọ); Ngoài ra, còn có những phát hiện khảo cổ thuộc văn hóa Đông Sơn như sưu tập trống đồng, công cụ, vũ khí, lăng mộ… chứng tỏ sự tồn tại của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc trong thời kỳ đầu dựng nước, dựng nước. thời đại đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của nhà nước Việt Nam.
– Cả hai nhà nước đều có địa bàn chủ yếu ở bắc bộ và bắc trung bộ nước ta ngày nay
– Tổ chức nhà nước do vua đứng đầu có mọi quyền hành giúp vua là các quan. Lạc tướng phụ trách các bộ và quan lớn nhất (trưởng làng ) phụ trách cồng chiêng và xe ngựa.
– Lúa là nguồn lương thực chính của người dân Văn Lang – Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Họ dùng gạo nếp để làm bánh phồng, làm bánh chưng, bánh dày.
– Trang phục của người dân các nước phản ánh trình độ phát triển, gu thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người dân thế giới cổ đại. Nhờ công nghệ dệt phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, sợi gai và tơ tằm. Trong cuộc sống hàng ngày, nam thường đóng khố, nữ mặc váy rộng.
– Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền qua sông rạch.
4. Điểm khác nhau của hai nhà nước này:
Đặc điểm phân biệt | Văn Lang | Âu Lạc |
Kinh đô | Phong Châu (Việt Trì -Phú Thọ) | Phong Khê (Đông Anh- Hà Nội) |
Lãnh thổ | Khu vực Bắc bộ và Bắc Trung bộ của Việt Nam ngày nay | Địa bàn được mở rộng hơn cộng với kế thừa vùng đất của Lạc Việt và Tây Âu |
Tổ chức của bộ máy nhà nước | Đơn giản, còn sơ khai | Tổ chức nhà nước được chặt chẽ hơn trước : + Vua nắm giữ tất cả quyền điều hành và có vị thế cao hơn trong việc trị nước. + Có quân đội mạnh, nhiều vũ khí tốt, có thành Cổ Loa phòng thủ kiên cố, hiểm trở và vững chắc. |
5. Nhà Văn Lang – Âu Lạc ra đời có ý nghĩa gì?
– Khẳng định sự tồn tại có thật của thời đại Hùng Vương.
– Người Việt cổ tạo dựng nền văn minh đầu tiên với những thành tựu vô cùng to lớn và rực rỡ khẳng định lịch sử dựng nước sớm và lâu đời của dân tộc Việt Nam tạo cơ sở cho sự hình thành quốc gia dân tộc Việt Nam.
– Với những thành tựu rực rỡ đó đã tạo nên lối sống truyền thống, bản lĩnh của dân tộc Việt -> trở thành vị thế chủ động cho dân tộc Việt bước vào cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc hơn 1000 năm, sau đó giành lại độc lập dân tộc, bước vào thời kỳ phát triển.