Như chúng ta đã biết không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới ta thấy đều mong muốn có sự phát triển kinh tế vượt trội, tuy nhiên nếu nền kinh tế tăng trưởng liên tục cũng là yếu tố đáng lo ngại vì rất dễ dẫn tới qua trình lạm phát, trong kinh tế thường hay gọi đó là "Nền kinh tế quá nóng". Vậy nền kinh tế quá nóng là gì? Dấu hiệu của nền kinh tế quá nóng?
Mục lục bài viết
1.Nền kinh tế quá nóng là gì?
Nền kinh tế quá nóng trong tiếng Anh là Overheated Economy.
Chắc hẳn chúng ta đã nghe đâu đó ề thuật ngữ nền kinh tế quá nóng đây được hiểu là một nền kinh tế đã trải qua một thời gian dài kinh tế hoạt động tốt và tăng trưởng liên tục, dẫn đến mức lạm phát cao.
Sự tăng giá mạnh này gây ra sự phân bổ nguồn cung không hiệu quả do các nhà sản xuất sản xuất quá mức và sinh ra năng lực sản xuất dư thừa trong nỗ lực tận dụng mức độ giàu có của nền kinh tế.
Thật không may, sự thiếu hiệu quả và lạm phát cuối cùng sẽ cản trở sự tăng trưởng của nền kinh tế và thường là điềm báo của suy thoái kinh tế.
2. Dấu hiệu của nền kinh tế quá nóng:
Chúng ta có thể hiểu về một nền kinh tế quá nóng là một nền kinh tế đang mở rộng với tốc độ không bền vững. Có hai dấu hiệu chính của một nền kinh tế quá nóng.
Tỉ lệ lạm phát tăng thường là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho thấy nền kinh tế đang quá nóng. Do đó, chính phủ và ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để giảm mức chi tiêu và vay.
Dù các ngân hàng trung ương có thể chống lạm phát gia tăng thông qua tăng lãi suất, hành động này có thể là quá trễ. Vì lạm phát là một chỉ số chậm, nên có thể phải mất một thời gian để những thay đổi chính sách giảm được tỉ lệ lạm phát.
Dấu hiệu thứ hai của một nền kinh tế quá nóng là tỉ lệ thất nghiệp của một quốc gia thấp hơn mức bình thường. Lẽ ra, mọi người có việc làm đầy đủ là một tin tốt. Nhưng việc làm đầy đủ cũng có nghĩa là lạm phát cao hơn vì mọi người đều có việc làm (có nghĩa là năng suất luôn ở mức cao nhất trong mọi thời gian) và tiền để chi tiêu.
3. Nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế quá nóng:
Như vậy chúng ta thấy ở đây có 2 dấu hiệu chính được nêu ở trên cũng là nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế quá nóng. Các nguyên nhân khác bao gồm bong bóng tài sản và các cú sốc kinh tế bên ngoài.
Bong bóng tài sản cũng là một dấu hiệu của kinh tế quá nóng. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là kết quả của một bong bóng trong lĩnh vực thế chấp bất động sản. Bong bóng có ảnh hưởng sâu rộng và dẫn đến một cuộc suy thoái lâu dài trên nhiều khu vực địa lí.
Ví dụ về nền kinh tế quá nóng
Cuộc đại suy thoái vào cuối những năm 2000 xảy ra nối tiếp một nền kinh tế quá nóng. Tỉ lệ thất nghiệp liên tục giảm cho đến năm 2007, lên đến đỉnh điểm với tỉ lệ 4,6% (dưới mức bình thường) trong năm đó. Trong khi đó, tỉ lệ lạm phát, vốn đang tăng đều đặn, đạt mức 5,25% trong năm 2006 ngay trước khi khủng hoảng nổ ra.
Một dấu hiệu khác của nền kinh tế Mỹ đang quá nóng là bong bóng bất động sản đã nổ vào năm 2007 và đã gây chấn động tới toàn bộ hệ sinh thái tài chính Mỹ. Chi tiêu của chính phủ làm những vấn đề trên trầm trọng hơn. Trong nhiệm kì của Tổng thống Clinton, ngân sách liên bang đạt thặng dư.
Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế của Tổng thống Bush đã dẫn đến thâm hụt. Năm 2005, Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ ước tính rằng thâm hụt ngân sách là 368 tỉ USD trong năm đó và 295 tỉ USD vào năm tiếp theo. Nói tóm lại, nền kinh tế Mỹ đã thể hiện những dấu hiệu của một nền kinh tế quá nóng trong những năm dẫn đến suy thoái kinh tế.
4. Nền kinh tế Việt Nam với cảnh báo tăng trưởng nóng:
Về giá chứng khoán, nguồn vốn tư nhân (bao gồm vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp) đổ vào ồ ạt thường sẽ làm tăng mạnh giá các loại chứng khoán, trong khi tổng doanh thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cổ phần chỉ tăng ở mức thấp hơn nhiều. Hiện nay trên thực tế cho thấy về vấn đề này là chỉ số trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng nhiều lần kể từ khi thành lập, hiện đã xấp xỉ ngưỡng 1.000 điểm.
Theo các thông tin như trên ta cso thể hiểu đây là thị trường chứng khoán đang bùng nổ theo kiểu bong bóng và đang đối mặt với rủi ro bong bóng xì hơi, mà hậu quả có thể là việc các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi Việt Nam.
Nói cách khác, tăng trưởng xuất khẩu không đủ bù đắp được sự tăng mạnh mẽ của nhập khẩu ở Việt Nam trong mấy năm qua. Điều này là do tiền VND đã bị lên giá ở mức nhẹ trong thời kỳ khác nhau, trong khi đồng bản tệ của đa phần các nước đang phát triển bị phá giá, ở các cấp độ khác nhau.
Như vậy ta thấy với tốc độ tăng mạnh của 4 yếu tố trên cho thấy rõ nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu bắt đầu tăng trưởng nóng, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là sự gia tăng mạnh mẽ nguồn vốn nước ngoài cụ thể gồm vốn ODA, FDI, đầu tư gián tiếp, và kiều hối và theo đó đều có xu hướng gia tăng mạnh gần đây.
Những dấu hiệu không bình thường trên nên được sớm khắc phục, nếu không nền kinh tế có thể gặp trở ngại, khi mà niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào “sức khỏe” của nền kinh tế suy giảm hoặc có thêm các cú sốc ngoại lai lớn khác.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, các nước đang phát triển đã áp dụng một loạt các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực đi kèm với dòng vốn nước ngoài trong khi vẫn khai thác tác động tích cực của nó đến tăng trưởng như tăng dự trữ ngoại hối và thực thi cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, giảm phụ thuộc vào nợ nước ngoài và vốn ngắn hạn và tự do hóa các giao dịch tài sản tài chính giữa cá nhân và tổ chức trong nước với nước ngoài.
Đối với biện pháp thứ nhất, cần có một lưu ý quan trọng. Quả là dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Nhưng nếu không quản lý tốt, điều này lại là một cái hại lớn vì dự trữ ngoại hối nếu tập trung vào tay Ngân hàng Nhà nước sẽ trút toàn bộ gánh nặng rủi ro về tiền tệ và lãi suất lên bảng cân đối tài sản của mình, và có thể gây ra những ảnh hưởng xấu về ngân sách.
Vì vậy, cần phải giảm rủi ro này bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư cho nguồn dự trữ này và san xẻ nó cho khu vực tư nhân. Nói cách khác, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư ra nước ngoài – một xu hướng tuy đã hình thành nhưng vẫn còn chưa rõ nét, với khối lượng đầu tư còn rất khiêm tốn, từ 300 đến 400 triệu USD trong năm qua – thay vì chỉ chú trọng đến kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Như vậy ta cần lưu ý là cần có biện pháp và chính sách linh hoạt và có phần uyển chuyển trong việc giữ tỷ giá VND/USD cho phù hợp với giá dầu mỏ và những biến động lớn về lạm phát trong nước và quốc tế, bởi nếu kìm nén tỷ giá càng lâu thì áp lực lạm phát càng lớn.
Biện pháp thứ tư là cần chủ động hình thành các điều kiện và tiêu chuẩn minh bạch hóa, củng cố quản lý tài chính doanh nghiệp, thắt chặt các quy định quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài và phòng ngừa rủi ro mang tính hệ thống.
Khi đã đạt được những điều kiện này, nên tiến hành tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn để tiếp tục thu hút vốn nước ngoài, kể cả ngắn hạn, phục vụ cho các mục tiêu phát triển. Sự cứng nhắc trong kiểm soát vốn có thể làm tăng sự nghi ngờ của các nhà đầu tư vào tính lành mạnh của hệ thống tài chính.