Nền kinh tế là một hệ thống các hoạt động sản xuất và tiêu dùng liên quan đến nhau, giúp xác định cách phân bổ những nguyên liệu khan hiếm. Nền kinh tế Fox-Trot?
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy nền kinh tế của các quốc gia trên khu vực toàn thế giới cùng với những cuộc tranh luận của Ngân hàng thế giới, Tổ chức thương mại thế giới và những đối tượng có ảnh hưởng lớn khác trong diễn đàn kinh tế thế giới cũng như những các cuộc thảo luận về sinh thái và vấn đề phát triển bền vững đã ảnh hưởng to lớn đến khái niệm thế nào là một nền kinh tế. Mỗi nền kinh tế đều có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với mỗi các quốc gia. Nền kinh tế Fox-Trot là thuật ngữ đề cập đến một mô hình tăng trưởng kinh tế, trong đó giai đoạn hưng thịnh nhanh chóng được theo sau bởi các giai đoạn tăng trưởng chậm.
Mục lục bài viết
1. Khái quát về nền kinh tế:
Khái niệm nền kinh tế:
Nền kinh tế tiếng Anh là Economy.
Kinh tế được hiểu là tổng thể những mối quan hệ và có sự tương tác qua lại lẫn nhau giữa con người với con người, liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm, hàng hóa để buôn bán, trao đổi trên thị trường.
Mục đích chính của kinh tế đó là nhằm để thu được những lợi ích nhất định về lợi nhuận, phục vụ cho nhu cầu của cá nhân.
Nền kinh tế là một hệ thống các hoạt động sản xuất và tiêu dùng liên quan đến nhau, giúp xác định cách phân bổ những nguyên liệu khan hiếm. Sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của những người sống và hoạt động trong nền kinh tế, còn được gọi là một hệ thống kinh tế.
Nền kinh tế được hiểu là một hệ thống các hoạt động của con người liên quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trong một quốc gia hoặc một khu vực địa lý nhất định.
Để có thể cấu thành một nền kinh tế không thể thiếu các cuộc cách mạng về công nghệ, lịch sử văn minh và tổ chức xã hội, cùng với địa lý và sinh thái, ví dụ cụ thể là các vùng với các điều kiện về nông nghiệp và cơ hội khai thác tài nguyên thiên nhiên khác nhau, trong số các nhân tố khác.
Nền kinh tế cũng đề cập đến thước đo tăng trưởng sản phẩm của một đất nước hoặc một khu vực.
Như vậy, ta nhận thấy nền kinh tế hiện đang là khái niệm dùng để chỉ tất cả các hoạt động kinh tế của một nước, để đánh giá quy mô của một nền kinh tế,người ta thường dùng đại lượng có tên là tổng sản phẩm trong nước, viết tắt là GDP. Đại lượng này sẽ cho biết giá trị thị trường của tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nước trong thời kỳ nhất định.
Chúng ta sẽ có thể tính toán phần đóng góp của các bộ phận cấu thành nền kinh tế vào GDP theo nhiều cách khác nhau, ví dụ dựa trên khu vực lớn (khu vực cá nhân hay hộ gia đình, khu vực doanh nghiệp hay công ty, khu vực tài chính, khu vực công cộng hay chính phủ, khu vực nước ngoài ) hoặc dựa trên các ngành sản xuất.
Trong các nền kinh tế hiện địa, có 3 khu vực chính của hoạt động kinh tế, bao gồm:
– Thứ nhất: Khu vực cơ bản : Liên quan đến việc khai thác và sản xuất nguyên liệu thô, như ngô-gạo-lúa mì, than đá, gỗ và sắt.
– Thứ hai: Khu vực thứ hai: Liên quan đến việc chuyển đổi nguyên liệu thô hoặc nguyên liệu trung gian thành hàng hóa, ví dụ sử dụng thép để sản xuất ôtô, hoặc sợi bông để làm thành quần áo.
– Thứ ba: Khu vực thứ ba: Liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ tới người tiêu dùng và các ngành kinh doanh, như trông trẻ, rạp chiếu phim hay dịch vụ ngân hàng.
Phân loại một số mô hình kinh tế:
Nền kinh tế thị trường sẽ cho phép hàng hóa được tự do lưu hành trong thị trường, theo cung và cầu. Loại hình kinh tế này hiện nat có xu hướng tự cân bằng theo tự nhiên. Khi giá trong một ngành cho một ngành công nghiệp tăng do nhu cầu, tiền bạc và lao động cần thiết để lấp đầy nhu cầu đó sẽ tự động chảy đến những nơi cần chúng.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sẽ phụ thuộc vào một tác nhân chính trị trung ương, điều khiển giá và phân phối hàng hóa. Cung và cầu không thể diễn ra tự nhiên trong hệ thống này vì nó được lên kế hoạch tập trung, do đó sự mất cân đối là thường xuyên xảy ra.
Nền kinh tế xanh phụ thuộc vào các dạng năng lượng tái tạo, bền vững. Các hệ thống này hoạt động với mục tiêu cuối cùng đó chính là nhằm để cắt giảm lượng khí thải carbon, khôi phục đa dạng sinh học, dựa vào các nguồn năng lượng thay thế và nói chung là có mục đích bảo tồn môi trường.
Việc nghiên cứu về kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế hiện nay được gọi là kinh tế học. Kinh tế có thể được chia thành hai lĩnh vực trọng tâm, kinh tế học vi mô và kinh tế vĩ mô. Kinh tế vi mô nghiên cứu hành vi của các cá nhân và công ty để hiểu tại sao họ đưa ra quyết định kinh tế và những quyết định này ảnh hưởng như thế nào đến hệ thống kinh tế lớn hơn. Nó tập trung vào các ngành và thị trường cụ thể, thay vì trên thị trường nói chung.
Trong khi đó, kinh tế học vĩ mô được sử dụng để nghiên cứu toàn bộ nền kinh tế, tập trung vào các quyết định và vấn đề quy mô lớn, bao gồm cả thất nghiệp và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Kinh tế vĩ mô có thể được sử dụng trên phạm vi đất nước cho tới quy mô lớn hơn như quy mô toàn cầu.
2. Nền kinh tế Fox-Trot:
Khái niệm nền kinh tế Fox-Trot:
Nền kinh tế Fox-Trot đề cập đến một mô hình tăng trưởng kinh tế, trong đó giai đoạn hưng thịnh sẽ nhanh chóng được theo sau bởi các giai đoạn tăng trưởng chậm.
Tăng trưởng kinh tế sẽ xảy ra khi khả năng sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế tăng từ giai đoạn này sang giai đoạn tiếp theo, điều này có thể xuất phát từ những việc như nhiều công nhân gia nhập lực lượng lao động hoặc tiến bộ trong công nghệ.
Nền kinh tế Fox-Trot trong tiếng Anh là gì?
Nền kinh tế Fox-Trot trong tiếng Anh là Fox-Trot Economy.
Đặc điểm của Nền kinh tế Fox-Trot:
Khả năng phát triển nền kinh tế và tạo ra tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra nhanh hoặc chậm và thậm chí có thể làm giảm sự tăng trưởng.
Nhiều yếu tố khác nhau cũng có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong một nền kinh tế và tốc độ thường sẽ thay đổi theo thời gian.
Mặc dù không có quy tắc cụ thể nào được đưa ra để dự đoán chính xác một nền kinh tế sẽ tăng trưởng cụ thể như thế nào trong tương lai, các mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn có thể được mô tả, và nền kinh tế Fox-Trot là một trong những mô hình như vậy.
Thuật ngữ nền kinh tế Fox-Trot hiện được gán cho chiến lược gia đầu tư Jeffery Saut, đây là một giám đốc điều hành tại Raymond James. Jeffery Saut đã đặt ra và phổ biến cụm từ vào đầu những năm 2000 để nhằm mục đích mô tả tăng trưởng kinh tế vào thời điểm đó.
Thuật ngữ nền kinh tế Fox-Trot được dựa trên điệu nhảy khiêu vũ fox-trot phổ biến. Trong một phiên bản nổi tiếng của điệu nhảy này, những người tham gia phải hoàn thành các bước theo kiểu hai bước nhanh, sau đó là hai bước chậm.
Nền kinh tế Fox-Trot thực tế đã trải qua thời kì tăng trưởng nhanh, sau đó là thời kì tăng trưởng chậm, trong khi vẫn cho thấy sự tăng trưởng chung trong suốt chu kì.
Tác động của Nền kinh tế Fox-Trot:
Nền kinh tế Fox-Trot ngoài những vai trò mà nó mang lại thì còn có thể là thách thức cho các nhà đầu tư.
Mặc dù kì vọng của các nhà kinh tế trong một nền kinh tế Fox-Trot là tăng trưởng kinh tế sẽ tăng trở lại, nhưng việc xác định thời điểm tăng trưởng nhanh quay trở lại thực sự là một thách thức đối với bất cứ một chủ thể nào.
Trong nền kinh tế Fox-Trot, sự không chắc chắn về kinh tế liên quan đến các cú sốc kinh tế hoặc cú sốc tài chính được tiềm ẩn và nó có thể dẫn đến sự biến động về tốc độ tăng trưởng kinh tế vĩ mô, từ đó có thể dẫn đến tỉ suất lợi nhuận trên nhiều tài sản và phí bảo hiểm rủi ro cao hơn khi đi vay.
Trong nền kinh tế Fox-Trot, thu nhập doanh nghiệp có thể biến động cao hơn so với điển hình một chu kì kinh doanh bình thường với một mức tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc định giá của một công ty.
Theo sau tăng trưởng nhanh là sự tăng trưởng hời hợt có thể khiến các công ty cắt giảm biên chế và thận trọng quá mức về kế hoạch đầu tư, mặc dù nền kinh tế nói chung vẫn đang tăng trưởng với tốc độ chậm hơn.
Các chủ thể là nhà đầu tư, doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể chuyển tiền tiết kiệm và đầu tư sang thị trường nước ngoài có nền kinh tế tương đối ổn định hơn.
Cũng giống như vậy, nhu cầu vay và cho vay ảnh hưởng đến lãi suất của nền kinh tế, và khi tăng trưởng kinh tế chậm lại, các công ty vay ít hơn, lãi suất có thể giảm, khiến các chủ thể là người tiết kiệm có tỉ suất hoàn vốn thấp hơn ngay cả khi họ muốn tiết kiệm nhiều hơn để tự bảo vệ mình khỏi biến động kinh tế. Mất lợi nhuận trong tiết kiệm và giảm việc làm lúc này sẽ có thể ảnh hưởng đến nhu cầu của người dân về hàng hóa và dịch vụ.