Hiện nay trên thị trường chứng khoán cac nhà đầu tư thường rất uquan tâm tới lợi nhuận khi đầu tư và để quyết định các hoạt động đầu tư, với múc sinh lời trong hoạt động đâu tưu chứng khoán các nhà đầu tư có thể ước chừng được lợi nhuận thu về. Vậy mức sinh lời trong đầu tư chứng khoán là gì? Các loại mức sinh lời?
Mục lục bài viết
1. Mức sinh lời trong đầu tư chứng khoán là gì?
Mức sinh lời hay tỉ suất lợi nhuận trong tiếng Anh tạm dịch là Profitability.
Trên lĩnh vực chứng khoán chúng ta thường thấy họ sử dụng thông tin về mức sinh lời dưới dạng số tương đối. Thực chất mức sinh lời tương đối phản ánh nhà đầu tư sẽ nhận được bao nhiêu lãi từ một đơn vị vốn đầu tư ban đầu. Cũng từ đó nên khi đề cập đến mức sinh lời trong phân tích chứng khoán sẽ hiểu đó là mức sinh lời tương đối.
Giả sử như việc chúng ta đầu tư chứng khoán là một kênh đầu tư rủi ro cao, không đảm bảo khả năng sinh lời đều đặn như ngân hàng, sinh lãi đều 5 – 10%/tháng là điều không thể xảy ra. Theo đó nên trên thị trường chứng khoán thường là sẽ biến động theo chu kỳ, chu kì này thường sẽ có 1 số tháng sẽ lãi rất cao (sóng lên), còn lại đa phần các tháng là bình thường, hòa vốn, thậm chí còn thua lỗ. Thông thường hàng năm thường có 1 hoặc 2 đợt sóng, và thường kéo dài từ 2 – 3 tháng.
Bên cạnh đó cũng có thể ví dụ như trên thực tế tại thời điểm năm 2012 và 2013 có một đợt sóng tăng từ tháng 1 – 4/2012 và đợt từ tháng 12/2012 – 2/2013. Trong các đợt sóng lên này, chỉ số Index chung toàn thị trường thường lên điểm khoảng 20 – 30%, các mã cổ phiếu tăng 40 – 50% và cá biệt có 1 số mã tăng hơn 100%. Đây không phải quy luật chung của thị trường mà một số mã có thực hiện điều chỉnh do sự thay đổi về quyền cổ tức tiền mặt, cổ phiếu, thưởng cổ phiếu và phát hành thêm.
Tuy nhiên khi sóng lên, thì theo đó với mức giá cổ phiếu cũng như khối lượng giao dịch tăng vọt, một đợt sóng kéo dài tới 2-3 tháng nhưng không ai có thể thu lợi nhuận suốt một đợt sóng, không ai biết khi nào sóng lên và khi nào chạm đỉnh để bán ra. Trường hợp có một cổ phiếu tăng 50-60%, chúng ta có thể đặt mục tiêu lãi 50% là vào khoảng 25-30% giá mua vào. Nếu tuân thủ đúng phương pháp và nguyên tắc thì mức sinh lời hợp lý thường vào khoảng 20 – 30% /năm.
2. Các loại mức sinh lời trong đầu tư chứng khoán:
Tuy nhiên nhà phân tích cũng phải quan tâm tới những loại mức sinh lời khác để có thể đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn.
Trong thực tế, thu nhập của khoản đầu tư vào một tài sản được cấu thành bởi hai bộ phận:
+ Thứ nhất là thu nhập do chính bản thân tài sản đó mang lại, đối với các tài sản là chứng khoán đó là cổ tức hoặc trái tức mà người sở hữu chứng khoán nhận được;
+ Thứ hai là phần lỗ hoặc lãi do giảm hoặc tăng giá của tài sản đầu tư (còn được gọi là lỗ hoặc lãi về vốn hay thặng dư vốn – capital appreciation). Như vậy:
Tổng mức sinh lời = Thu nhập từ chứng khoán (là cổ tức hoặc trái tức) + lãi (hoặc lỗ) về vốn
– Mức sinh lời trong một khoảng thời gian
Giả sử trong năm thứ nhất mức sinh lời khi đầu tư vào một chứng khoán là R1, năm thứ 2 là R2… và giả định toàn bộ phần thu nhập từ cổ phần lại được tái đầu tư và cũng thu được mức sinh lời tương đương với mức sinh lời của khoản vốn gốc thì trong khoảng thời gian t năm, tổng mức sinh lời sẽ là:
– Mức sinh lời năm
Trên thực tế để so sánh được mức sinh lời giữa các tài sản có thời gian đáo hạn khác nhau, người ta thường sử dụng mức sinh lời theo năm. Nếu một tài sản có mức sinh lời là Rm trong m tháng thì mức sinh lời năm (Rn) sẽ là:
– Mức sinh lời thực tế và mức sinh lời danh nghĩa
Như vậy chúng ta có R là mức sinh lời danh nghĩa, r là mức sinh lời thực tế, h là tỉ lệ lạm phát, ta có thể thấy mối quan hệ giữa mức sinh lời danh nghĩa, mức sinh lời thực tế và tỉ lệ lạm phát qua công thức sau:
(1+R) = (1+r)x(1+h)
Suy ra:
r= [(1+R)/(1+h)] – 1
R = r + h + rh
Như vậy ta nhận thấy với công thức đề ra này sẽ cho biết mức sinh lời danh nghĩa (R) có ba bộ phận hợp thành. Thứ nhất là mức sinh lời thực tế (r), thứ hai chính là sự đền bù việc giảm giá trị của khoản tiền đầu tư ban đầu do lạm phát (h) và bộ phận cuối cùng là sự đền bù về việc giảm giá trị của mức sinh lời do lạm phát (rh).
Còn một thành phàn nữa nhưng thành phần này thường rất nhỏ, vì vậy, trên thực tế khi tính toán người ta thường cho bằng 0. Như vây công thức tính mức sinh lời danh nghĩa trên thực tế như sau:
R = r + h
– Mức sinh lời bình quân
Mức sinh lời bình quân cho biết trong một khoảng thời gian đầu tư nhất định, nhà đầu tư thu được mức sinh lời bình quân một năm là bao nhiêu, từ đó sẽ quyết định các khoản đầu tư trong tương lai.
3. Mức sinh lời cơ bản trên cố phiếu:
Mức sinh lời cơ bản trên mỗi cổ phiếu để ta thấy được đây là một trong những chỉ tiêu được nhà đầu tư rất quan tâm khi ra quyết định mua, bán hay nắm giữ cố phiếu của mọt công ty đại chúng bởi số liệu về EPS được sử dụng rộng rãi trong đánh giá HĐKD và khả năng sinh lợi của một công ty. Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận hay lỗ của một công ty phân bổ cho một cổ phần phổ thông đang lưu hành trên thị trường, giá trị EPS càng lớn, chứng tỏ DN kinh doanh tốt, có khả năng sinh lợi càng cao, khả năng nhà đầu tư nhận được cổ tức càng cao ( tuy nhiên khả năng này còn phụ thuộc vào tỷ lệ chia cổ tức và cách chia cổ tức) . Ví du: EPS của công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE) năm tài chính 2012 là 2704 VNĐ có nghĩa là một cổ phiếu phổ thông của Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh mang lợi nhuận cho người sở hữu nó là 2704 VNĐ
Để tính toán EPS người ta dựa vào cấu trúc nguồn vốn góp của các cổ đông là thuộc dạng đơn giản hay phức tạp. Một cấu trúc nguồn vốn gips đơn giản chỉ bao gồm cổ phiếu phổ thông và các chứng khoán không chuyển đổi. Với những công ty có cấu trúc vốn góp đơn giản, EPS cơ bản được tính như sau: học kế toán thực hành ở đâu tốt tại hà nội
Trong công thức trên, cổ tức chia cho cổ phiếu ưu đãi không kể là đã trả hay chưa trả đều được trừ khỏi lợi nhuận sau thuế hoặc cộng vào phần lỗ thuần với số lượng cổ phiếu của cổ phiếu phổ thông đang lưu hành bình quân được tính bằng tổng số lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành hằng ngày chia cho số lượng ngày trong một kỳ nhất định. học nghiệp vụ xuất nhập khẩu
Trong trường hợp công ty niêm yết có cấu trúc vốn góp phức tạp nếu có các chứng khoán đang lưu hành mang tính chất làm giảm hoặc pha loãng số lượng cổ phiếu hiện có của DN như chứng khoán chuyển đổi, quyền chọn, quyền mua và các cam kết phát hành cổ phiếu tương tự khác. học nguyên lý kế toán ở đâu tốt
Trên thực tế, có rất nhiều công ty đại chúng có các loại chứng khoán này
EPS suy giảm bao gồm tất cả các cổ phiếu phổ thông tiềm năng làm giảm lợi nhuận trên một cổ phiếu. Ở đây chúng ta chỉ xem xét điểm một số ví dụ chứng khoán pha loãng tiềm năng như cổ phiếu quyền chọn và cổ phiếu quyền mua và cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi. EPS suy giảm chỉ tính được với giá cố định rằng tất cả các chứng khoán chuyển đổi sẽ được chuyển đổi và quyền chọn sẽ được thực hiện vào thời điểm sớm nhất có thể (ví dụ như vào đầu năm tài chính chứng khoán đang lưu hành vào ngày đó.
4. Cách tính lãi suy giảm trên cổ phiếu:
Lợi nhuận thuần trong công thức tính EPS suy giảm được điều chỉnh do những ảnh hưởng sau:
+ Nếu cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông , thì cổ tức chia cho số cổ phiếu ưu đãi này phải được trừ khỏi tổng số cổ tức được chia cho cổ phiếu ưu đãi, bởi chúng ta giả định rằng cổ phiếu ưu đãi sẽ không còn lưu hành lâu hơn nữa vì chuyển đổi.
+ Nếu trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thì chi phí lãi vay phải được cộng lại lợi nhuận thuần với gía trị sau thuế. học kế toán ở đâu
Số lượng cổ phiếu phát hành thêm do chuyển đổi, quyền chọn,.. phải được cộng vào mẫu số trong công thức tính EPS suy giảm. Đối với trái phiếu chuyển đổi, số lượng cổ phiếu phát hành sẽ được cộng trực tiếp vào mẫu số. Đối với quyền chọn ( ví dụ như quyền chọn mua cổ phiếu của người lao đông trong công ty chẳng hạn), chúng ta giả định rằng thông thường công ty sẽ mua lại cổ phiếu trên thị trường với giá cổ phiếu bình quân để thực hiện quyền chọn, do vậy chỉ có lượng cổ phiếu phát hành thêm mới được tính vào mẫu số.
Trên thị trường, giá giao dịch một cổ phiếu của công ty khác nhau là khác nhau. Do vậy, nhà đầu tư có thể tính toán khả năng sinh lời của một đồng vốn bỏ vào đầu tư bằng cách lấy EPS chia cho giá giao dịch của một cổ phếu