Môi trường toàn cầu thường được hiểu bao gồm các yếu tố môi trường rộng lớn trên toàn thế giới. Và trong lĩnh vực kinh doanh, môi trường toàn cầu được các công ty, doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia rất chú trọng. Vậy môi trường toàn cầu là gì? Phân tích môi trường toàn cầu?
Mục lục bài viết
1. Môi trường toàn cầu là gì?
Môi trường toàn cầu trong kinh doanh còn được gọi là môi trường kinh doanh toàn cầu.
Môi trường kinh doanh toàn cầu có thể được định nghĩa là môi trường ở các quốc gia có chủ quyền khác nhau, với các yếu tố ngoại sinh với môi trường gia đình của tổ chức, ảnh hưởng đến việc ra quyết định về khả năng và sử dụng tài nguyên. Môi trường kinh doanh toàn cầu có thể được phân loại thành môi trường bên ngoài và môi trường bên trong.
Môi trường toàn cầu trong kinh doanh được hiểu là: Global business environment
2. Phân tích môi trường toàn cầu:
2.1. Lực lượng xã hội:
Chủ đề của các quy tắc đạo đức và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) là kết tinh của nhiều thách thức xã hội. Đối với các doanh nghiệp đa quốc gia (MNE), rõ ràng CSR đã trở thành một chủ đề có tầm quan trọng lớn, nhưng sự phức tạp của việc đối phó với các lực lượng xã hội khác nhau giữa các quốc gia đã tạo ra sự không chắc chắn về các chiến lược tối ưu. Việc theo đuổi các giải pháp thay thế có chi phí thấp nhất ở mỗi quốc gia mâu thuẫn với mục tiêu tạo ra các chiến lược nhất quán trên toàn cầu. Trong khi đó, các tổ chức phi chính phủ quốc tế và chính phủ các quốc gia đang đàm phán các thỏa thuận CSR để tạo ra các tiêu chuẩn toàn cầu. Đối với MNE, quản trị công ty với sự phân chia trách nhiệm giữa công ty mẹ và các công ty con của nó làm tăng thêm sự bối rối trong việc thực hiện các chiến lược toàn cầu và gây thêm khó khăn trong việc tạo ra các thủ tục phù hợp để báo cáo và thực thi toàn cầu. CSR đã trở thành một vấn đề quản lý trọng tâm trong một thế giới mà các kỳ vọng của công chúng, yêu cầu pháp lý và nhu cầu xã hội đều có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia và nơi MNE phải liên tục điều hòa các quan điểm đạo đức phổ quát của mình với thực tế cụ thể của từng quốc gia.
Một yếu tố chính gây ra những thách thức CSR trong kinh doanh quốc tế là sự khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia. Các tác động của sự khác biệt về văn hóa còn vượt ra ngoài CSR để bao gồm hành vi kinh doanh của quản lý địa phương và nhân viên, cũng như sở thích của người tiêu dùng. Đối với MNE, có những lợi thế trong việc tạo ra một bộ cơ cấu tổ chức và các biện pháp khuyến khích nhất quán trên toàn cầu và một chương trình tiếp thị thống nhất.
Đối với nhiều nền văn hóa, các mối quan hệ cá nhân được xây dựng dựa trên sự trao đổi ân huệ liên tục. Mối quan hệ cá nhân và lòng tin là yếu tố trung tâm quyết định thành công, cả trong công ty và trong các tương tác bên ngoài của công ty. Hơn nữa, nếu không có truyền thống luật học kinh doanh, việc thực thi hợp đồng nhanh chóng có thể trở nên bất khả thi với kết quả là người ta phải dựa vào các mối quan hệ cá nhân để đối phó với những hiểu sai và hiểu lầm.
2.2. Lực lượng công nghệ:
Các động cơ và thủ tục chuyển giao công nghệ đã trở thành một yếu tố thiết yếu trong triển vọng tăng trưởng của các quốc gia kém phát triển hơn. Mối liên hệ giữa các khoản đầu tư quốc tế và các công nghệ tiên tiến có trong các khoản đầu tư này đặt các MNE vào trung tâm của chủ đề này. Các MNE có thể thường xuyên chuyển việc sản xuất các sản phẩm mới từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia kém phát triển hơn để giảm chi phí thông qua việc trả mức lương thấp hơn. Nhiều chính phủ của các quốc gia đang phát triển muốn thoát ra khỏi chu kỳ sản phẩm này bằng cách tạo ra các hệ thống đổi mới của riêng họ thông qua đầu tư vào các trường đại học và viện nghiên cứu.
Những tiến bộ trong công nghệ thông tin đã kết hợp với những đổi mới trong vi điện tử để tạo ra nhiều cơ hội mới cho hoạt động kinh doanh điện tử trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Internet đã trở thành cơ sở hạ tầng mới có thể giảm chi phí, cải thiện thông tin liên lạc và nâng cao thực tiễn quản lý.
Đối với nhiều quốc gia, sự phân chia kỹ thuật số có thể tồn tại giữa các khu vực, nhóm tuổi, thu nhập và trình độ học vấn. Các công nghệ vòng lặp cục bộ tiên tiến và dịch vụ băng thông rộng có thể không có sẵn với chi phí hợp lý ở mọi nơi. Bản chất của sự phân chia kỹ thuật số làm cơ sở cho nhu cầu phân khúc thị trường điện tử với các chiến lược và thực tiễn riêng biệt cho các phân khúc thị trường khác nhau. Đối với nhiều doanh nghiệp, kinh doanh điện tử đang thay đổi khả năng thương lượng tương đối trong mối quan hệ giữa người sử dụng lao động / người lao động và đang thay đổi bản chất của các hoạt động nguồn nhân lực.
Các lực lượng chính trị và xã hội mới đang thúc đẩy các công ty, đặc biệt là các công ty ở các nước phát triển, tạo ra các công nghệ có thể giảm mức sử dụng nguyên liệu và năng lượng, cải thiện hiệu quả của các quy trình sản xuất, mở rộng các hoạt động tái chế và cải thiện việc quản lý sản phẩm cuối đời.
2.3. Lực lượng kinh tế:
Lực lượng kinh tế khác nhau giữa các quốc gia và liên tục thay đổi theo thời gian. Phân tích các tác động có thể xảy ra và việc tạo ra các chiến lược kinh tế phù hợp có thể là yếu tố trung tâm quyết định sự thành công của một công ty. Mức độ hấp dẫn của một thị trường cụ thể phụ thuộc vào cấu trúc ngành của nó, bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện tại, mối đe dọa của các sản phẩm thay thế và những người mới gia nhập, và khả năng thương lượng của các nhà cung cấp và khách hàng. Các công nghệ truyền thông mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê ngoài quốc tế, cho phép mỗi công ty định vị từng hoạt động ở bất kỳ quốc gia nào, cung cấp sự kết hợp tối ưu giữa chi phí, chất lượng và các thuộc tính khác. Cơ cấu tổ chức mới có thể được yêu cầu để điều phối các mạng lưới quốc tế và kích thích sự đổi mới quốc tế.
Tiềm năng lợi nhuận của một ngành phụ thuộc vào cấu trúc của ngành đó và cấu trúc ngành có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia. Đối với các nhà quản lý, quan điểm này có ý nghĩa quyết định trong các quyết định kinh doanh quốc tế. Khi một công ty thống trị thị trường, mối quan hệ qua lại giữa công ty đó và khách hàng của nó có thể có một cấu hình riêng, nơi công ty có quyền duy trì giá cả và lợi nhuận trên mức cạnh tranh. Mức độ sức mạnh của nhà độc quyền trong đàm phán giá sẽ bị ảnh hưởng bởi mối đe dọa của những người mới gia nhập và mối đe dọa của các sản phẩm thay thế. Nếu những mối đe dọa này là yếu, thì một nhà độc quyền có thể thu được lợi nhuận đặc biệt cao
MNE phải chọn địa điểm đầu tư trong bối cảnh các biến số kinh tế vĩ mô luôn thay đổi của mỗi quốc gia. Tỷ lệ tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát, và tỷ giá hối đoái đều có thể ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của công ty. Tiến bộ công nghệ có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng và mức thu nhập của một quốc gia để nhu cầu của người tiêu dùng mang lại những cơ hội mới. Khả năng cạnh tranh quốc tế của mỗi quốc gia khác nhau giữa các ngành, do đó sức hấp dẫn tương đối của mỗi quốc gia như một địa điểm đầu tư không giống nhau đối với tất cả các công ty hoặc tất cả các hoạt động kinh doanh. Do đó, mỗi MNE phải phát triển sự kết hợp của các chiến lược và quản lý của riêng mình để đối phó với các lực lượng kinh tế.
2.4. Lực lượng chính trị và chính phủ:
Các lực lượng chính trị và chính phủ có liên quan đến từng lực lượng xã hội, công nghệ và kinh tế. Những lực lượng này đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng vốn xã hội, thúc đẩy tinh thần kinh doanh và tạo thuận lợi cho nhập cư. Có nhiều cách mà các giá trị văn hóa định hình các lực lượng chính trị và thông qua đó các nhóm lợi ích ảnh hưởng đến các quyết định của chính phủ. Nỗ lực giảm tham nhũng minh họa cho dòng chảy ngược lại, trong đó luật pháp và việc thực thi chúng tìm cách thay đổi các phương thức kinh doanh phổ biến. Trong bối cảnh của những tương tác này, công ty phải điều chỉnh các chiến lược và thực tiễn quản lý của mình để đối phó với các lực lượng chính trị và xã hội, nhưng công ty cũng có thể tìm cách tác động đến các lực lượng này thông qua vận động hành lang của chính phủ và bằng cách liên hệ với các nhóm lợi ích.
Các lực lượng chính trị cũng liên quan đến các lực lượng công nghệ thông qua sự phát triển của “nền kinh tế tri thức” và các mối quan hệ đối tác đang diễn ra trong “vòng xoắn ba”. Quyền sở hữu và các quy định của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tốc độ mà các công ty áp dụng công nghệ thông tin, vi điện tử và kinh doanh điện tử. Các chính phủ xác định bản chất của ngành công nghiệp dược phẩm, trợ cấp cho nghiên cứu, phê duyệt các loại thuốc mới và kiểm soát giá thuốc. Các mối quan tâm về môi trường ngày càng gia tăng khiến các chính phủ khuyến khích việc triển khai các công nghệ mới. Trong tất cả các khía cạnh này, các phân tích về lực lượng công nghệ liên quan đến việc thảo luận về các lực lượng chính trị.
Các chính phủ liên tục cố gắng thay đổi hoạt động của các thị trường cụ thể. Cơ cấu ngành của mỗi công ty chịu sự can thiệp của chính phủ để đối phó với các tác động bên ngoài hoặc tác động của bên thứ ba và định giá độc quyền. Tuy nhiên, nhiều chính phủ gần đây đã tham gia vào các chương trình tự do hóa với tư nhân hóa và bãi bỏ quy định với hy vọng kích thích tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là cải thiện năng suất làm nền tảng cho nó. Trong khi đó, các chính sách tài khóa, tiền tệ và tỷ giá hối đoái của chính phủ xác định môi trường kinh tế mà công ty hoạt động.
Các chính sách công khác nhau giữa các quốc gia và những khác biệt này có thể ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư và thương mại của công ty. Một số chính sách công can thiệp vào chiến lược kinh doanh, trong khi những chính sách khác có thể hỗ trợ và hỗ trợ công ty. Nhiều quốc gia đã và đang thay đổi các chính sách công của họ để thu hút đầu tư quốc tế nhiều hơn. Một số đã tạo ra các khu kinh tế đặc biệt hoặc các hành lang công nghệ cao, trong đó các nhà đầu tư được hứa hẹn với các chính sách công đặc biệt hấp dẫn.