Hiện nay trong kinh tế học như chúng ta đã biết thì mô hình kinh tế dựa trên nền kinh tế của doanh nghiệp, đây là cách thực hiện có chủ định cụ thể đối với vấn đề cụ thể nào đó. Vậy mô hình trong kinh tế học là gì? Nội dung và ví dụ thực tiễn về mô hình như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Mô hình trong kinh tế học là gì?
Mô hình trong tiếng Anh là “Model”.
Mô hình là sự trình bày dưới dạng toán học, dựa trên lí thuyết kinh tế của một doanh nghiệp, một thị trường hay một vài thực thể nào đó, cũng có thể hiểu mô hình là sự đơn giản hóa hiện thực một cách có chủ định và nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các mặt thứ yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề nghiên cứu. Ví dụ, mô hình xác định sản lượng cân bằng bỏ qua nhiều yếu tố tác động vào tổng sản lượng của nền kinh tế, chỉ giữ lại các thành tố lớn của tổng cầu, nhưng rất hữu ích đối với việc nghiên cứu nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái, vì trong nhiều trường hợp, tình trạng suy thoái có nguyên nhân ở sự biến động trong các thành tố của tổng cầu, đặc biệt đầu tư.
Theo lí thuyết trong kinh tế với mô hình là một cấu trúc lý thuyết đại diện cho các quá trình kinh tế bằng một tập hợp các biến và một tập hợp các mối quan hệ logic và hoặc định lượng giữa chúng theo đó với các mô hình kinh tế là một khung đơn giản, thường là toán học, được thiết kế để minh họa các quy trình phức tạp. Bên cạnh đó các mô hình kinh tế đặt ra các tham số cấu trúc và một mô hình có thể có các biến ngoại sinh khác nhau và các biến đó có thể thay đổi để tạo ra các phản ứng khác nhau theo các biến kinh tế. Phương pháp sử dụng các mô hình bao gồm: điều tra, lý thuyết hóa và lý thuyết phù hợp với thế giới.
2. Nội dung và ví dụ thực tiễn về mô hình:
Ví dụ về mô hình
Chúng ta có thể phát triển mô hình của một doanh nghiệp cụ thể và sử dụng mô hình này để dự đoán số lượng sản phẩm của doanh nghiệp này sẽ thay đổi bao nhiêu nếu giá nguyên liệu giảm, chẳng hạn giảm 10% và theo thống kê và kinh tế lượng cũng cho phép ta đo lường độ chính xác của các dự đoán. Ví dụ, chúng ta dự đoán rằng giá nguyên liệu đầu vào giảm 10% sẽ dẫn đến sản phẩm đầu ra tăng 5%, chúng ta có chắc rằng số lượng sản phẩm sẽ tăng đúng 5% hay có thể tăng trong khoảng từ 3% đến 7%. Lượng hóa độ chính xác của một dự đoán cũng quan trọng như chính dự đoán đó.
Mô hình kinh tế là gì?
Mô hình kinh tế (Economic model) là mô hình liên kết hai hay nhiều biến số kinh tế. Mô hình kinh tế được sử dụng cho ba mục đích:
– Một là mô tả mối quan hệ tồn tại giữa các biến số kinh tế.
– Hai là xác định kết cục kinh tế rút ra từ các mối liên hệ của các biến số kinh tế
– Ba là dự báo ảnh hưởng của những thay đổi trong các biến số kinh tế đối với kết cục kinh tế.
Có nhiều ví dụ về mô hình kinh tế như mô hình về giá cân bằng thị trường, về những thay đổi trong giá cân bằng thị trường, về mức cân bằng của thu nhập quốc dân và nhân tử.
3. Một số mô hình trong kinh tế học:
Mô hình Heckscher-Ohlin với tên gọi này hay hường nó sẽ được gọi tắt là Mô hình H-O, đây được hiểu là một mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng nào trên cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia. Mô hình IS-LM với mô hình này ta thấy nó cũng được biết đến như là mô hình Hicks-Hansen và mô hình này được nhà kinh tế học người Anh John Hicks 1904-1989 và nhà kinh tế học của Hoa Kỳ Alvin Hansen 1887-1975 đưa ra và phát triển và với mô hình IS-LM đã được sử dụng để kết hợp các hoạt động khác nhau của nền kinh tế nó là sự kết hợp của thị trường tài chính với thị trườnghàng hóa và dịch vụ và trong nền kinh tế đóng thì mô hình không chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài nền kinh tế cụ thể với việc xuất khẩu ròng, tỷ giá hối đoái,lãi suất thế giới…
Khi nhắc tới mô hình Solow-Swan đây là mô hình nói về sự tăng trưởng ngoại sinh, hay chúng ta còn biết tới nó là một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển và với mô hình này được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số, và sự gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ với bản chất của nó là hàm tổng sản xuất tân cổ điển, thường là dưới dạng hàm Cobb-Douglas, cho phép mô hình liên kết được với kinh tế học vi mô.
Cuối cùng đó là các mô hình tổng cầu và tổng cung hay thường biết đến là mô hình AD-AS đây được hiểu là mô hình dùng để giải thích hai biến số. Biến số thứ nhất là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được đo bằng GDP thực tế theo đó với các biến số thứ hai là mức giá được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI hay chỉ số điều chỉnh GDP. Mô hình Mundell-Fleming là một mô hình kinh tế học vĩ mô sử dụng 2 đường IS và LM để phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ môđược thực hiện trong một nền kinh tế mở cửa.
4. Các loại mô hình kinh tế tại Việt nam:
Kinh tế được diễn ra dưới nhiều loại mô hình khác nhau nhằm phù hợp mới hướng đi, mục đích định hướng của từng chủ thể nhất định. Quý khách có thể tham khảo nội dung dưới đây để nắm bắt được một số mô hình kinh tế hiện nay trên Thế giới.
– Mô hình kinh tế thị trường:
Đây là mô hình kinh tế mà cho phép tất cả các hàng hóa được pháp luật cho phép kinh doanh đều được tự do lưu thông trong thị trường, hoàn toàn dựa trên yếu tố cung và cầu. Đây là loại mô hình kinh tế có xu hướng tự cân bằng, điều tiết mà không cần quá nhiều sự tác động điều chỉnh.
– Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung:
Loại mô hình này sẽ chịu nhiều sự tác động, điều chỉnh của nhà nước trong việc điều tiết giá cả hay phân phối hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Theo đó trong mô hình kinh tế này thì yếu tố cung – cầu không quá được chú trọng và cũng không được diễn ra theo tự nhiên do có sự can thiệp quá nhiều phía nhà nước vào hoạt động kinh tế.
– Mô hình kinh tế xanh:
Đây là mô hình kinh tế mới chỉ được thực hiện ở một số nước có nền khoa học công nghệ phát triển mạnh. Mô hình kinh tế này phụ thuộc chủ yếu vào các dạng năng lượng tái tạo, nhằm thân thiện với môi trường, hạn chế tối đa lượng khí thải đưa vào không khí. Đồng thời tiến hành nghiên cứu để tạo ra các nguồn năng lượng mới thay thế cho những nguồn năng lượng có nguy cơ cạn kiệt, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sống.
Ngoài mục đích học tập chuyên nghiệp, việc sử dụng các mô hình bao gồm:
+ Dự báo hoạt động kinh tế theo cách kết luận có liên quan logic với các giả định;
+ Đề xuất chính sách kinh tế để sửa đổi hoạt động kinh tế trong tương lai;
+ Trình bày các lý lẽ hợp lý để biện minh chính trị chính sách kinh tế ở cấp quốc gia, để giải thích và ảnh hưởng đến chiến lược của công ty ở cấp độ của công ty, hoặc đưa ra lời khuyên thông minh cho các quyết định kinh tế hộ gia đình ở cấp hộ gia đình.
+ Lập kế hoạch và phân bổ, trong trường hợp các nền kinh tế kế hoạch tập trung, và ở quy mô nhỏ hơn trong hậu cần và quản lý doanh nghiệp.
+ Trong tài chính, các mô hình dự đoán đã được sử dụng từ những năm 1980 để giao dịch (đầu tư và đầu cơ). Ví dụ, trái phiếu thị trường mới nổi thường được giao dịch dựa trên các mô hình kinh tế dự đoán sự tăng trưởng của quốc gia đang phát triển phát hành chúng. Từ những năm 1990, nhiều mô hình quản lý rủi ro dài hạn đã kết hợp các mối quan hệ kinh tế giữa các biến mô phỏng trong nỗ lực phát hiện các kịch bản tương lai tiếp xúc cao (thường thông qua phương pháp Monte Carlo).
Một mô hình thiết lập một khung lập luận để áp dụng logic và toán học có thể được thảo luận và kiểm tra độc lập và có thể được áp dụng trong các trường hợp khác nhau. Các chính sách và lập luận dựa trên các mô hình kinh tế có cơ sở rõ ràng cho sự đúng đắn, cụ thể là tính hợp lệ của mô hình hỗ trợ.
Như chúng ta biết thì hình kinh tế trong sử dụng hiện tại không giả vờ là lý thuyết của mọi thứ kinh tế; bất kỳ giả vờ nào như vậy sẽ ngay lập tức bị cản trở bởi tính không khả thi tính toán và tính không hoàn chỉnh hoặc thiếu lý thuyết cho các loại hành vi kinh tế khác nhau. Do đó, kết luận rút ra từ các mô hình sẽ là đại diện gần đúng của các sự kiện kinh tế. Bên cạnh đó các mô hình được xây dựng đúng có thể loại bỏ thông tin bên ngoài và cô lập các xấp xỉ hữu ích của các mối quan hệ chính và theo cách này có thể hiểu nhiều hơn về các mối quan hệ trong câu hỏi hơn là cố gắng hiểu toàn bộ quá trình kinh tế.