Cạnh tranh chính là cơ sở của mô hình thị trường của nền kinh tế hiện nay, trên cơ sở đó cân bằng được thiết lập để thỏa mãn nhu cầu cho người tiêu dùng và người mua. Theo đó mô hình Bertrand xuất hiện là để diễn tả lại hiện tượng cơ bản này của thị trường. Vậy mô hình nhị quyền Bertrand là gì? Phân tích mô hình nhị quyền Bertrand?
Mục lục bài viết
1. Mô hình nhị quyền Bertrand là gì?
Mô hình nhị quyền Bertrand trong tiếng Anh là ” Bertrand’s Duopoly Model”.
Khi nhắc tới mô hình nhị quyền Bertrand chúng ta đã biết mô hình này nhà kinh tế học cùng tên thiết lập vào năm 1883, theo đó với mô hình của ông khác với mô hình nhị quyền Cournot ở chỗ ông cho rằng mỗi công ty đều kì vọng rằng đối thủ sẽ giữ giá không đổi, bất kể quyết định của chính họ về giá cả. Như vậy với mỗi công ty phải đối mặt nhu cầu thị trường như nhau và luôn hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với giả định rằng doanh nghiệp đối thủ sẽ không thay đổi giá cả của họ. Mô hình nhị quyền Bertrand đưa đến một trạng thái cân bằng ổn định cho cả hai doanh nghiệp.
2. Phân tích mô hình nhị quyền Bertrand:
Ví dụ trong doanh nghiệp A được giả định là tối đa hóa lợi nhuận khi doanh nghiệp B không thay đổi giá cả của mình.
Theo vi dụ này thì với mô hình nhị quyền Bertrand đem tới một trạng thái mới đó là sự cân bằng ổn định cho doanh nghiệp A và doanh nghiệp B và cũng cho thấy nó có thể minh họa bằng một hệ trục tọa độ có hai đường phản ứng của hai doanh nghiệp và theo đó đối với doanh nghiệp A, chúng ta có thể vẽ ra một quĩ tích các điểm có lợi nhuận tối đa khi bán hàng với các mức giá PA khác nhau trên cơ sở giả định doanh nghiệp B bán hàng với mức giá PB. Trạng thái cân bằng ổn định đạt được tại điểm E, khi hai đường phản ứng cắt nhau và cả hai doanh nghiệp bán hàng với giá như nhau.
Người ta phê phán mô hình này vì nó đưa ra những giả định ngây thơ về hành vi dự diến, trong khi không tính đến chi phí sản xuất và khả năng có các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường và sau khi thảo luận về các mô hình nhị quyền cổ điển của Cournot và Bertrand, nhiều nhà kinh tế đã tiến hành phát triển các mô hình nhị quyền truyền thống không thông đồng, áp dụng cho các cấu trúc thị trường với một vài công ty nhận thức được sự phụ thuộc lẫn nhau.
3. Nguyên tắc thực hiện mô hình nhị quyền Bertrand:
Như chúng ta đã biết với mô hình Bertrand này nó mô tả các tình huống của độc quyền nhóm và theo đó có từ hai công ty trên thị trường sản xuất các sản phẩm đồng nhất và họ không thể hợp tác và các công ty cạnh tranh với nhau bằng cách đặt giá cho sản phẩm của họ bởi các sản phẩm là đồng nhất, nên nhu cầu về hàng hóa rẻ hơn tăng vọt ngay lập tức. Trường hợp mà cả hai nhãn hàng đặt cùng một mức giá, thì nó được chia thành hai phần bằng nhau với mô hình của Bertrand phù hợp không chỉ cho một tình huống độc quyền, mà cả khi có nhiều nhà sản xuất trên thị trường. Ví dụ về sự đồng nhất trong các sản phẩm của họ và điều quan trọng là các công ty công nghệ không khác nhau tức là biên và chi phí trung bình của họ là như nhau và bằng với giá cạnh tranh, tăng công ty sản xuất có thể vô tận và theo đó họ sẽ làm như vậy miễn là giá thị trường bao gồm chi phí của họ và nếu nó nhỏ hơn, thì sản xuất không có ý nghĩa để không ai sẽ làm việc thua lỗ.
Nhưng chiến lược nào các công ty sẽ chọn trong trường hợp này? Dường như tất cả các nhà sản xuất sẽ được hưởng lợi nếu mỗi người trong số họ đặt giá cao và bên cạnh đó với mô hình Bertrand cho thấy trong tình huống các công ty không hợp tác với nhau, điều này sẽ không xảy ra. Giá cạnh tranh bằng với chi phí cận biên theo cân bằng Nash nhưng tại sao điều này xảy ra và đúng thế trong trường hợp này, không ai có thể kiếm được lợi nhuận, ví dụ với một công ty đặt giá lớn hơn chi phí cận biên của mình và công ty thứ hai thì không. Không khó để dự đoán những gì sẽ xảy ra trong trường hợp này. Như vậy người mua sẽ đưa ra lựa chọn có lợi cho các sản phẩm của công ty thứ hai và điều kiện của mô hình Bertrand sẽ có thể tăng khối lượng sản xuất vô thời hạn.
Giả sử cả hai công ty đặt cùng một mức giá, cao hơn chi phí cận biên của họ. Đây là một tình huống rất không ổn định. Mỗi công ty sẽ tìm cách hạ giá để nắm bắt toàn bộ thị trườn và theo đó sẽ có thể tăng gần gấp đôi lợi nhuận của mình và không có trạng thái cân bằng ổn định trong tình huống khi cả hai hãng đặt giá khác nhau, cao hơn chi phí cận biên và tất cả khách hàng sẽ đi qua nơi hàng hóa rẻ hơn, theo đó các điểm cân bằng duy nhất có thể là tình huống khi cả hai hãng đặt giá bằng với chi phí cận biên.
Mô hình Bertrand cho thấy độc quyền nhóm đây được xem là một bước ở vị trí trung gian và trường hợp mà các công ty không thể đồng ý và từ chối hợp tác với những nỗ lực của họ, theo đó với mô hình này người ta sẽ bán hàng hóa của họ với giá bằng với chi phí cận biên và không ai sẽ mất, nhưng sẽ không tạo ra lợi nhuận. Trên thực tế ta thấy no sẽ rất thuận lợi và nó là đủ dễ dàng để một số công ty làm cho các sản phẩm tương tự để đồng ý nhất là nó có lợi cho tất cả nên trong trường hợp này, thị trường được đặt ở một mức giá bằng với sự độc quyền. Mỗi công ty sản xuất một khối lượng hàng hóa trong khả năng của mình. Lợi thế trong cuộc sống thực của công ty chỉ có thể có được thông qua các công nghệ mới.
4. So sánh mô hình Cournot và Bertrand:
Tác giả của nguyên tắc toán học của lý thuyết về sự giàu có, tin rằng giá cả là luôn luôn lớn hơn chi phí cận biên của hàng hóa sản xuất, bởi vì các công ty tự chọn số lượng phát hành của họ. mô hình Bertrand chứng minh rằng nó không phải là. Tuy nhiên, tất cả các giả định rằng nó sử dụng được xây dựng Cournot. Trong đó:
+ Trên thị trường trong hơn một công ty. Tuy nhiên, các sản phẩm mà họ sản xuất là đồng nhất.
+ Các công ty không thể hoặc không muốn hợp tác.
+ Các giải pháp của mỗi công ty về vấn đề phạm vi tác động đến thành lập vào giá thị trường của sản phẩm.
+ Các nhà sản xuất đóng vai trò hợp lý và tư duy chiến lược, tìm cách tối đa hóa lợi nhuận của họ.
Bertrand cạnh tranh với mục đích quan trọng nhất là để giảm thiểu giá, nhưng mà mô hình là chính xác hơn, Bertrand cho rằng các điều kiện của công ty duopoly sẽ bị buộc phải định giá ở mức chi phí cận biên của họ Theo đó nên cuối cùng, tất cả sẽ được giảm xuống còn cạnh tranh hoàn hảo.
bên cạnh đó trong thực tế nó chỉ ra rằng không phải tất cả các lĩnh vực dễ dàng như vậy để thay đổi âm lượng về vấn đề này, theo đề nghị của Bertrand, trong trường hợp này, tốt hơn mô tả tình hình mô hình Cournot. cả hai có thể được sử dụng trong một số trường hợp và trong giai đoạn đầu tiên, doanh nghiệp lựa chọn khối lượng đầu ra, thứ hai đó là vấn đề cạnh tranh trong mô hình Bertrand, định giá. Riêng rẽ, chúng ta phải xem xét các trường hợp số lượng doanh nghiệp trên thị trường có xu hướng đến vô cùng. Sau đó, mô hình Cournot cho thấy giá là tương đương với chi phí cận biên. Như vậy, trong những điều kiện này, tất cả các hoạt động phù hợp với các kết luận của Bertrand.
Một khác biệt quan trọng là không có công ty có thể trong thực tế không phải để tăng năng lực sản xuất vô thời hạn. Nó ghi nhận thêm Edgeworth. Giá trong cuộc sống thực không tương ứng với các nhà sản xuất chi phí cận biên. Điều này là do thực tế rằng việc lựa chọn chiến lược không phải là quá đơn giản được ví như sự cân bằng Nash.
Như vậy chúng ta có thể thấy được những điểm khác biệt cụ thể và thấy được những ưu diderm của mô hình nhị quyền Bertrand này so với các mô hình khác tương tự nó và nó cũng còn một số tồn tại đó là Bertrand mô hình sử dụng các giả định mà rất xa thực tế đời sống điều đó khiến cho chúng ta rât khó hình dung và áp dụng ở cuộc sống hiện thực.