Trong xã hội như chúng ta thấy thì sẽ xuất hiện rất nhiều các tầng lớp khác nhau trong xã hội và theo đó các tầng lớp này đều sẽ làm việc để tạo ra lợi ích cho mình. Vậy để hiểu thêm về lý thuyết xung đột là gì? Các nội dung về Lý thuyết xung đột, cùng tìm hiểu dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Lý thuyết xung đột là gì?
Lý thuyết xung đột trong tiếng Anh là Conflict Theory.
Lý thuyết xung đột được đề xuất bởi Karl Marx, cho rằng xã hội đang ở trong tình trạng xung đột liên tục vì cạnh tranh về nguồn lực hạn chế. Nó cho rằng trật tự xã hội được duy trì bởi sự thống trị và quyền lực, thay vì sự đồng thuận và phù hợp.
Theo Lý thuyết xung đột, những người có sự giàu có và quyền lực cố gắng giữ lấy nó bằng mọi cách có thể, chủ yếu bằng cách đàn áp người nghèo và sự bất lực. Một tiền đề cơ bản của Lý thuyết xung đột là các cá nhân và các nhóm trong xã hội sẽ làm việc để tối đa hóa lợi ích của chính họ.
2. Các nội dung về lý thuyết xung đột:
Lý thuyết xung đột được sử dụng để giải thích một loạt các hiện tượng xã hội, bao gồm các cuộc chiến tranh và cách mạng, sự giàu có và nghèo đói, phân biệt đối xử và bạo lực trong nước.
Nó đổ lỗi cho hầu hết sự phát triển cơ bản trong lịch sử loài người như dân chủ và dân quyền cho các nỗ lực tư bản để kiểm soát quần chúng hơn là mong muốn trật tự xã hội. Lý thuyết xoay quanh các khái niệm về bất bình đẳng xã hội trong việc phân chia tài nguyên và tập trung vào các xung đột tồn tại giữa các tầng lớp.
Nhiều loại xung đột có thể được mô tả bằng Lý thuyết xung đột. Một số nhà lí luận, bao gồm Marx, tin rằng xung đột xã hội vốn có thúc đẩy sự thay đổi và phát triển trong xã hội.
3. Ứng dụng Lý thuyết xung đột trong kinh tế:
Ví dụ, các nhà lí luận xem mối quan hệ giữa chủ sở hữu khu nhà ở và người thuê nhà chủ yếu dựa vào sự mâu thuẫn thay vì sự cân bằng hay hài hòa, mặc dù có thể có nhiều sự hòa hợp hơn xung đột. Họ tin rằng chúng được xác định bằng cách lấy bất kì nguồn lực nào họ có từ nhau.
Trong ví dụ trên, một số tài nguyên hạn chế có thể gây ra xung đột giữa người thuê và chủ sở hữu bao gồm không gian trong khu phức hợp, số lượng các trang thiết bị không đủ để trang trải hay số tiền mà người thuê phải trả, v.v… Chủ sở hữu khu phức hợp, tuy là một chủ nhà duyên dáng nhưng về cơ bản là họ tập trung để giành được càng nhiều căn hộ càng tốt nhằm kiếm được nhiều tiền thuê nhất có thể.
Điều này có thể khơi mào mâu thuẫn giữa các khu nhà ở, giữa những người thuê nhà đang tìm cách chuyển đến một căn hộ nào đó, v.v… Mặt khác của sự mâu thuẫn, chính những người thuê nhà đang tìm kiếm căn hộ tốt nhất có thể với số tiền thuê ít nhất.
Các nhà lí luận chỉ ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và các sự cứu trợ tài chính của các ngân hàng sau này là ví dụ điển hình của Lý thuyết xung đột trong đời thực, theo các tác giả Alan Sears và James Cairns trong cuốn sách “A Good Book, in Theory”.
Họ cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính là kết quả tất yếu của sự bất bình đẳng và bất ổn của hệ thống kinh tế toàn cầu, cho phép các ngân hàng và tổ chức lớn nhất tránh được sự giám sát của chính phủ và chịu rủi ro lớn.
Sears và Cairns nhận thấy rằng các ngân hàng và doanh nghiệp lớn sau đó đều nhận được tiền cứu trợ từ chính phủ do họ không có đủ quĩ cho các chương trình xã hội qui mô lớn như chăm sóc sức khỏe toàn cầu. Sự hỗ trợ đối lập này cho một giả định cơ bản về Lý thuyết xung đột đó là các thể chế chính trị và thực hành văn hóa chính thống ủng hộ các nhóm và cá nhân thống trị.
Ví dụ này minh họa rằng xung đột có thể là cố hữu trong tất cả các loại mối quan hệ, bao gồm cả những mối quan hệ không xuất hiện ngoài mặt để đối nghịch. Nó cũng cho thấy rằng ngay cả một kịch bản đơn giản cũng có thể dẫn đến nhiều lớp xung đột.
4. Sự phát triển của lý thuyết xung đột:
Lý thuyết xung đột cho rằng căng thẳng và xung đột nảy sinh khi các nguồn lực, địa vị và quyền lực được phân bổ không đồng đều giữa các nhóm trong xã hội và những xung đột này trở thành động cơ cho sự thay đổi xã hội. Trong bối cảnh này, quyền lực có thể được hiểu là quyền kiểm soát các nguồn lực vật chất và của cải tích lũy, kiểm soát chính trị và các thể chế tạo nên xã hội, và địa vị xã hội của một người so với những người khác (không chỉ được xác định theo giai cấp mà còn bởi chủng tộc, giới tính, giới tính, văn hóa , và tôn giáo, trong số những thứ khác).
Lý thuyết xung đột bắt nguồn từ công trình của Karl Marx , người tập trung vào nguyên nhân và hậu quả của xung đột giai cấp giữa giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất và nhà tư bản) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân và người nghèo). Tập trung vào các tác động kinh tế, xã hội và chính trị của sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu , Marx đưa ra lý thuyết rằng hệ thống này, dựa trên sự tồn tại của một giai cấp thiểu số hùng mạnh (giai cấp tư sản) và một giai cấp đa số bị áp bức (giai cấp vô sản), đã tạo ra xung đột giai cấp. bởi vì lợi ích của cả hai trái ngược nhau, và các nguồn lực đã được phân phối không công bằng giữa họ.
Trong hệ thống này, một trật tự xã hội bất bình đẳng được duy trì thông qua sự ép buộc về mặt ý thức hệ tạo ra sự đồng thuận – và sự chấp nhận các giá trị, kỳ vọng và điều kiện do giai cấp tư sản xác định. Marx lý thuyết rằng công việc tạo ra sự đồng thuận được thực hiện trong “kiến trúc thượng tầng” của xã hội, bao gồm các thể chế xã hội, cơ cấu chính trị và văn hóa, và cái mà nó tạo ra sự đồng thuận là “cơ sở”, các quan hệ kinh tế của sản xuất.
Marx lý luận rằng khi điều kiện kinh tế xã hội tồi tệ hơn đối với giai cấp vô sản, họ sẽ phát triển ý thức giai cấp bộc lộ sự bóc lột của họ dưới tay giai cấp tư sản giàu có của giai cấp tư sản, và sau đó họ sẽ nổi dậy, đòi thay đổi để giải quyết mâu thuẫn. Theo Marx, nếu những thay đổi được thực hiện để xoa dịu xung đột vẫn duy trì một hệ thống tư bản chủ nghĩa, thì chu kỳ xung đột sẽ lặp lại. Tuy nhiên, nếu những thay đổi được thực hiện tạo ra một hệ thống mới, như chủ nghĩa xã hội , thì hòa bình và ổn định sẽ đạt được.
Nhiều nhà lý thuyết xã hội đã xây dựng lý thuyết xung đột của Marx để củng cố, phát triển và hoàn thiện nó trong nhiều năm. Giải thích tại sao lý thuyết về cuộc cách mạng của Marx không thể hiện trong cuộc đời ông, học giả và nhà hoạt động người Ý Antonio Gramsci cho rằng sức mạnh của hệ tư tưởng mạnh hơn những gì Marx đã nhận ra và cần phải làm nhiều việc hơn nữa để vượt qua bá quyền văn hóa, hoặc thống trị thông qua ý thức chung . Max Horkheimer và Theodor Adorno, các nhà lý luận phê bình thuộc Trường phái Frankfurt , đã tập trung công việc của họ vào việc sự trỗi dậy của văn hóa đại chúng – nghệ thuật, âm nhạc và phương tiện truyền thông đại chúng – đã đóng góp như thế nào vào việc duy trì bá chủ văn hóa. Gần đây hơn, C. Wright Mills đã dựa trên lý thuyết xung đột để mô tả sự trỗi dậy củamột “tầng lớp quyền lực” nhỏ bé bao gồm các nhân vật quân sự, kinh tế và chính trị đã cai trị nước Mỹ từ giữa thế kỷ XX.
Nhiều người khác đã dựa trên lý thuyết xung đột để phát triển các loại lý thuyết khác trong khoa học xã hội, bao gồm lý thuyết nữ quyền , lý thuyết chủng tộc phê phán , lý thuyết hậu hiện đại và hậu thuộc địa, lý thuyết đồng tính, lý thuyết hậu cấu trúc và các lý thuyết về toàn cầu hóa và hệ thống thế giới . Vì vậy, mặc dù lý thuyết xung đột ban đầu mô tả cụ thể các xung đột giai cấp, nhưng qua nhiều năm, nó đã tự cho mình nghiên cứu về cách các loại xung đột khác, như những xung đột tiền đề về chủng tộc, giới tính, tình dục, tôn giáo, văn hóa và quốc tịch, trong số những loại khác, là một phần. cấu trúc xã hội đương đại và cách chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.