Lý thuyết phản thân trong kinh tế học là gì? Các nội dung về lí thuyết phản thân? Bình luận về lý thuyết phản thân trong kinh tế học?
Lý thuyết phản thân là thuật ngữ có nguồn gốc từ xã hội học. Tuy nhiên các ý nghĩa của nó cũng được phản ánh trong kinh tế học. Khi mà các mối liên hệ phản thân của chính nhận thức nhà đầu tư được tác động và điều chỉnh. Nhận thức có thể là các kỳ vọng ban đầu và mang đến tác động lên nền kinh tế. Tuy nhiên các kết quả được phản ánh lại tác động ngược trở lại và làm thay đổi nhận thức của nhà đầu tư. Trong kinh tế học, các quan điểm và nội dung của xã hội học vẫn được phản ánh nguyên giá trị. Lý thuyết này mang đến các giải thích cho phản ánh hay kết quả của nền kinh tế.
Mục lục bài viết
1. Lý thuyết phản thân trong kinh tế học là gì?
Lý thuyết phản thân hay thuyết phản hồi trong tiếng Anh là Reflexivity.
Lý thuyết phản thân trong kinh tế học là lí thuyết phản ánh với các tác động và thay đổi trong nhận thức. Các thay đổi diễn ra với chính bản thân nhà đầu tư khi tham gia và hoạt động kinh tế trên thị trường. Với tính chất phản thân mang đến các tác động bởi một vòng phản hồi tồn tại trong đó nhận thức của nhà đầu tư. Làm ảnh hưởng đến nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế, từ đó thay đổi nhận thức của chính nhà đầu tư đó. Lý thuyết phản thân có nguồn gốc từ xã hội học với các luận giải cho xã hội. Nhưng trong thế giới kinh tế và tài chính, người đề xuất chính của nó là George Soros.
Các tính chất của lý thuyết phản thân giữ nguyên các giá trị và ý nghĩa khi phản ánh trong kinh tế học. Trong hoạt động của nhà đầu tư, có nhiều tác động dẫn đến thay đổi tính chất và hiệu quả đầu tư. Trong đó có cả các bài học dẫn đến thay đổi nhận thức. Tuy nhiên, lý thuyết phản thân chỉ được xem xét với chính diễn biến thay đổi nhận thức của nhà đầu tư đó. Nghĩa là với nhận thức ban đầu làm thay đổi nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế. Và khi hoạt động trong nền kinh tế đó, dội ngược lại làm thay đổi nhận thức của nhà đầu tư phù hợp.
Mang đến các nhận thức luận mới.
Nó được hiểu như những nhận thức được vận động sau một quá trình. Mang đến các phát triển và nhận thức mới phù hợp, phản ánh đúng các tính chất của thị trường. Soros tin rằng lý thuyết phản thân làm mất đi phần lớn lí thuyết kinh tế chính thống. Khi nó có các tác động rõ rệt trên nhận thức của nhà đầu tư trên thị trường. Và lý thuyết này sẽ trở thành một trọng tâm chính của nghiên cứu kinh tế. Thậm chí còn đưa ra tuyên bố phô trương rằng nó “làm phát sinh một phẩm hạnh mới cũng như nhận thức luận mới”.
Ông tin tưởng vào các nhận thức mới mang đến ý nghĩa trong tác động và đưa đến phát triển kinh tế. Khi các nhà đầu tư có sự nhạy bén nhất định. Và họ tìm được các giá trị hợp lý, đúng đắn cho phương hướng, chiến thuật đầu tư của mình. Khi những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế bị tác động, có thể được xem là một quá trình vận động đi lên. Nó phù hợp với các thực tế khách quan và các nhu cầu phát triển, thúc đẩy kinh tế.
Lý thuyết phản thân mang đến một loạt các tác động. Trong đó ban đầu và kết thúc mang đến sự thay đổi trong nhận thức của nhà đầu tư. Nó không dựa trên quyết định của họ về thực tế mà là nhận thức của họ về thực tế. Các hành động xuất phát từ những nhận thức này có tác động đến thực tế hoặc các nguyên tắc cơ bản. Quá trình tác động có thể làm biến đổi các giá trị và phản ánh sự thay đổi giá trị. Sau đó ảnh hưởng ngược trở lại đến nhận thức của nhà đầu tư. Và theo đó là các biến đổi về giá cả. Lý thuyết này giải thích cho các vận động dẫn đến chuyển dịch về giá cả trên thị trường.
2. Các nội dung về lý thuyết phản thân:
Với vận động hay hậu quả khủng hoảng tài chính.
Quá trình này tự củng cố và có xu hướng mất cân bằng khiến cho giá cả ngày càng tách rời khỏi thực tế. Có thể với một giai đoạn phản ánh, giá cả sẽ dịch chuyển nhẹ. Tuy nhiên, khi các sự dịch chuyển càng phổ biến, tính chất phản thân càng tác động mạnh mẽ có thể mang đến các mất cân đối giá trên thị trường. Soros xem cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như một minh họa cho lí thuyết này. Khi giá cả bị tác động không còn phản ánh quy luật và đảm bảo tính chất vận động trên thị trường.
Theo quan điểm của ông, với các giao dịch mua nhà ở. Việc thực hiện các khoản vay thế chấp thường được tiến hành. Khi nhu cầu mua nhà ở càng tăng cao, giá nhà ở càng tăng. Điều này khiến các ngân hàng tăng khoản cho vay thế chấp nhà ở. Nó phản ánh dựa trên các quy luật cung cầu. Khi nhu cầu vay quá cao, ngân hàng càng dễ dàng tìm kiếm lãi suất. Nó làm cho các tài sản nhà ở càng phản ánh giá trị cao hơn. Và đến lượt mình, cho vay tăng đã đẩy giá nhà lên cao được phản ánh trên chính các hệ quả dội ngược lại.
Khi các giá cả quá chênh lệch với giá trị thực tế phản ánh trên thị trường. Các yêu cầu trong kiểm soát cần thiết được tiến hành. Nếu không kiểm tra giá cả tăng nó sẽ dẫn đến bong bóng giá. Hình thành không rõ ràng khiến các khách hàng khó xác định giai đoạn bong bóng. Đến một thời điểm nhất định, khi giá nhà tăng quá cao và người mua không còn khả năng sở hữu. Bong bóng vỡ dẫn đến khủng hoảng tài chính và đại suy thoái kinh tế.
Lý thuyết phản thân so với các khái niệm cân bằng kinh tế.
Lý thuyết phản thân của Soros đối nghịch với các khái niệm về cân bằng kinh tế, kì vọng hợp lí và giả thuyết thị trường hiệu quả. Ông đưa ra các tác động mang tính chất phản ánh nhận thức mới. Hay các tác động ngược trở lại giải thích các hệ quả đầu tư trên thị trường. Thay vì đánh giá tính chất hợp lý hay hiệu quả của quyết định. Các khủng hoảng tài chính hay suy thóa kinh tế được giải thích bằng lý thuyết phản thân. Trong khi lí thuyết kinh tế chính thống, giá cân bằng được ngụ ý bởi các nguyên tắc kinh tế cơ bản quyết định cung và cầu.
Các nhận thức được thực hiện trong hoạt động kinh doanh hay đầu tư được tiến hành. Nguyên tắc kinh tế có thể bị tác động bởi các sở thích của người tiêu dùng và sự khan hiếm tài nguyên. Những thay đổi về nguyên tắc kinh tế sẽ khiến những người tham gia thị trường trả giá cao hoặc thấp. Phụ thuộc vào những kì vọng hợp lí của họ về giá cả trong tương lai.
Với một nhà đầu tư, các tác động có thể không ảnh hưởng đến hoạt động thị trường. Tuy nhiên, nếu đó là các kỳ vọng của một nhóm nhà đầu tư với những tiềm năng quá lớn trong tương lai. Nó có thể tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế. Trước tiên có thể là sự phản ánh giá trị không đúng. Sau cùng có thể mang đến các khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Tính chất phản ánh tích cực và tiêu cực theo nội dung lý thuyết.
Khi giá cả có các tác động và chuyển dịch ban đầu, nó có thể mang đến các lợi ích cho người tham gia trên thị trường. Khi đó sự ổn định và điều chỉnh phù hợp có thể mang đến các tích cực. Sự cân bằng cần thiết được đặt ra giữa giá cả và kỳ vọng về lợi ích tiềm năng. Như vậy, quá trình này bao gồm cả phản hồi tích cực và tiêu cực giữa giá cả và kì vọng về các nguyên tắc kinh tế cơ bản cần lưu ý. Chúng sẽ phản ánh hiệu quả khi cân bằng lẫn nhau ở một mức giá cân bằng mới. Khi đó, quá trình giá này sẽ có xu hướng giữ cho thị trường di chuyển nhanh chóng và hiệu quả về trạng thái cân bằng. Phản ánh mức giá mới cho sản phẩm.
Vòng phản hồi tích cực khiến giá bị giảm hoặc đạt đến mức cân bằng mới. Phản hồi tiêu cực thông thường sẽ giữa giá cả và kì vọng liên quan đến các nguyên tắc kinh tế cơ bản. Phản ánh trên giá đã trở nên tách rời khỏi thực tế. Theo lý thuyết phản thân, các nhà đầu tư sẽ điều chỉnh lại kì vọng của họ trên các hệ quả phản ánh thị trường. Tuy nhiên trên thực tế, khác với những nhận định của Soros vì những điều chỉnh này mang đến các phản hồi tiêu cực. Trong khi ông cho rằng các tác động phản thân dội ngược trở lại sẽ mang đến các vận đông phù hợp với thực tế thị trường.
Bằng chứng cho lí thuyết của mình, Soros chỉ ra chu kì bùng nổ và nhiều đợt bong bóng giá tiếp theo sau sự cố giá cả khi người ta tin rằng giá cả đi chệch khỏi giá trị cân bằng được bao hàm bởi các nguyên tắc kinh tế cơ bản. Ông thường đề cập đến việc sử dụng đòn bẩy và lợi ích từ tín dụng trong việc bắt đầu quá trình và vai trò của tỉ giá hối đoái thả nổi.
Bình luận.
Có thể thấy được các nhận thức tiến bộ của Soros trong đề xuất lý thuyết phản thân đối với kinh tế học. Khi mà có thể sử dụng nội dung lý thuyết này giải thích cho các khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Nó mang đến các nhận định tối ưu cho nhà đầu tư với các nhu cầu và kỳ vọng với tiềm năng đầu tư. Tuy nhiên, phải xem xét các điều chỉnh giá phù hợp và tích cực nhằm điều chỉnh nhận thức. Còn khi những kỳ vọng không được phản ánh trên thực tế, các rủi ro trên giá trị sản phẩm có thể sẽ mang đến ảnh hưởng về nguồn vốn đầu tư.