Chắc hẳn mỗi chúng ta đều đã nghe qua về lý thuyết giá trị lao động, và nhất là trong sản xuất kinh doanh thì lí thuyết này lại càng đóng vai trò rất to lớn trong việc phân tích các giá trị lao động và để đo lường tính toán chính xác nhất. Nhưng lại rất ít ai biết rõ về Lý thuyết giá trị lao động là gì? Học thuyết giá trị lao động cụ thể là như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Lý thuyết giá trị lao động là gì?
Chắc hẳn không ai là chưa từng nghe qua về lí thuyết giá trị lao động (Labor Theory Of Value) đây được hiểu đó là một nỗ lực ban đầu của các nhà kinh tế để giải thích tại sao hàng hóa được trao đổi với giá tương đối nhất định trên thị trường. Nó gợi ý rằng giá trị của một hàng hóa có thể được đo lường một cách khách quan bằng số giờ lao động trung bình cần thiết để sản xuất nó. Những người ủng hộ nổi tiếng nhất của lí thuyết lao động là Adam Smith, David Ricardo và Karl Marx.
Lí thuyết giá trị lao động cho rằng hai mặt hàng sẽ giao dịch với cùng một mức giá nếu chúng thể hiện cùng một lượng thời gian lao động, nếu không chúng sẽ trao đổi theo tỉ lệ cố định bởi sự khác biệt tương đối trong thời gian lao động của hai mặt hàng này.
Lí thuyết giá trị lao động trong tiếng Anh là ” Labor Theory Of Value”
2. Học thuyết giá trị lao động:
Khi phát triển lí thuyết về giá trị lao động của họ, cả Smith (trong cuốn “Sự giàu có của các quốc gia”) và Ricardo bắt đầu bằng cách nghĩa ra một giả thuyết về “sự sơ khai và chính quyền đầu tiên” của loài người bao gồm việc sản xuất hàng hóa đơn giản. Ở nhà nước sơ khai này, chỉ có những người tự sản xuất trong nền kinh tế, tất cả đều sở hữu vật liệu, thiết bị và công cụ cần thiết để sản xuất. Không có sự phân biệt giai cấp giữa nhà tư bản, người lao động và chủ nhà, vì vậy khái niệm về vốn như chúng ta biết vẫn chưa được sử dụng. Họ lấy ví dụ đơn giản hóa về một thế giới chỉ có hai mặt hàng là hải ly và hươu. Nếu sản xuất hươu có lợi hơn hải ly, sẽ có sự chuyển đổi về sản xuất giữa người sản xuất hải ly sang sản xuất hươu.
Nguồn cung của hươu trao đổi bằng hiện vật sẽ tăng lên khiến thu nhập trong sản xuất hươu giảm, đồng thời thu nhập trong việc sản xuất hải ly tăng vì ít người làm công việc sản xuất đó. Trong khi Smith mô tả khái niệm và nguyên tắc cơ bản của LTV thì Ricardo quan tâm đến việc giá cả tương đối giữa các mặt hàng được chi phối như thế nào. Lấy lại ví dụ về sản xuất hải ly và hươu. Nếu phải mất 20 giờ lao động để tạo ra một con hải ly và 10 giờ lao động để tạo ra một con hươu, thì một con hải ly sẽ đổi lấy hai con nai, cả hai đều bằng 20 đơn vị thời gian lao động.
Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến chi phí trực tiếp ra ngoài và săn bắn, mà còn cả chi phí gián tiếp trong việc sản xuất các dụng cụ cần thiết như làm cái bẫy để bắt hải ly hoặc dùng cung và mũi tên để săn hươu. Tổng số lượng thời gian lao động được tích hợp theo chiều dọc – bao gồm cả thời gian lao động trực tiếp và gián tiếp. Vì vậy, nếu cần 12 giờ để làm bẫy hải ly và 8 giờ để bắt hải ly thì bằng 20 tổng số giờ lao động.
Mặc dù giá thị trường có thể dao động thường xuyên do cung và cầu tại bất kì thời điểm nào, giá tự nhiên đóng vai trò là trung tâm. Nếu giá thị trường vượt qua giá tự nhiên, mọi người sẽ được khuyến khích bán nhiều hơn. Trong khi giá thị trường đánh giá là thấp hơn giá tự nhiên thì người ta được khuyến khích mua nhiều hơn. Theo thời gian, sự cạnh tranh này sẽ có xu hướng đưa giá tương đối trở lại phù hợp với giá tự nhiên.
Marx bị lôi cuốn vào lí thuyết lao động vì ông tin rằng lao động của con người là đặc điểm chung duy nhất được chia sẻ bởi tất cả hàng hóa và dịch vụ trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên đối với Marx, hai hàng hóa là không đủ để có số lượng lao động tương đương, thay vào đó, hai hàng hóa phải có cùng số lượng lao động cần thiết về mặt xã hội.
Marx đã sử dụng lí thuyết lao động để đưa ra một phê phán gay gắt chống lại các nhà kinh tế học cổ điển trên thị trường tự do theo truyền thống của Adam Smith. Ông cho rằng, nếu tất cả hàng hóa dịch vụ trong một hệ thống tư bản được bán với giá phản ánh giá trị thực của chúng và tất cả các giá trị được đo bằng giờ lao động thì làm thế nào các nhà tư bản có thể hưởng lợi nhuận trừ khi họ trả cho công nhân ít hơn giá trị lao động thực của họ. Chính trên cơ sở đó, Marx đã phát triển lí thuyết khai thác của chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh tế học cổ điển không có câu trả lời cho đến khi Cách mạng Chủ nghĩa nổ ra.
3. Ý nghĩa của học thuyết giá trị lao động:
Thứ nhất, đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu cả lao động được tích lũy (tư bản) cũng tham gia vào việc tạo ra giá trị (chứ nó không chỉ giản đơn mang giá trị phần hao mòn vô hình của mình trong quá trình sản xuất sang hàng hóa mới được tạo ra), thì rõ ràng tồn tại “phần lợi nhuận hợp pháp” có nguồn gốc không phải từ lao động sống tự thân, từ hoạt động của sức công nhân, mà từ tư liệu sản xuất thuộc về nhà tư bản (không xét đến cùng). Nhưng về lý thuyết, rất phức tạp để xác định “phần hợp pháp” đó. Cả công nhân lẫn nhà tư bản đều không mấy quan tâm trực diện chuyện này. Công nhân thì cho rằng, toàn bộ những gì được tạo ra đều phải thuộc về những người trực tiếp sản xuất như họ. Nhà tư bản lại cho rằng, khi đã trả cho giá trị của sức lao động (trả tiền cho việc sử dụng nó trong suốt thời gian thuê mướn, tức là dưới dạng cảm tưởng như tiền lương của toàn bộ lao động), thì nhà tư bản có quyền định đoạt toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra, trong đó có cả sản phẩm thặng dư. Nhưng việc xác định được “phần hợp pháp” đó
Thứ hai, khi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thắng lợi, thì còn có thể xác định khách quan hơn phần sản phẩm xã hội tổng thể được dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung của xã hội, và phần được phân phối theo lao động có tính đến độ dài thời gian, cường độ, và chủ yếu là độ phức tạp của chính lao động. Những nhận xét nêu trên giúp hé lộ ra nhiều điểm có ý nghĩa đối với học thuyết giá trị thặng dư. Mác đã gọi tập 4 của Tư bản là Học thuyết giá trị thặng dư. Do vậy sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư đối với Mác là không thể tranh cãi, hay Mác thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại của chúng.
Trong thời gian lao động, người công nhân tạo ra không chỉ giá trị cần thiết cho sự tồn tại sức lao động của mình, của năng lực lao động ở nghĩa thông thường (bao gồm cả tồn tại của giống loài mình, của giai cấp những người sản xuất), mà cả phần giá trị thặng dư bị người sở hữu tư liệu sản xuất trực tiếp tước đoạt. Nếu những suy ngẫm mang tính phê phán nêu trên (không chỉ lao động, mà các yếu tố khác của sản xuất cũng tham gia tạo thành nguồn gốc của giá trị) là đúng, thì ngoài lao động sống là nguồn gốc chủ yếu của phần giá trị thặng dư, còn phải kể thêm vào đây các phương tiện được sử dụng trong quá trình sản xuất ra nó, và các yếu tố khác đã được nhắc tới ở trên. Và do vậy, không phải toàn bộ giá trị thặng dư đều thuộc về người chủ sở hữu phương tiện sản xuất (Mác gián tiếp nhắc nhở điều này khi ông hoạch định sự phân phối sản phẩm xã hội tổng thể ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa). Một phần của nó, dưới dạng thuế khóa, sẽ được chi dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung.
Như vậy chúng ta có thể thấy việc thực hiện nghiên cứu học thuyết giá trị, hiểu rõ quy luật giá trị sẽ có kiến thức điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó giúp cho chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của việc lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa; nguyên nhân của sự phân hóa xã hội thành người giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội để có phương hướng, giải pháp khắc phục. qua đây chúng ta cũng thấy được các điểm chính của học thuyết nay từ đó có thể vận dụng vào thực tiễn.