Lưu thông tiền tệ được xem là hoạt động cần thiết cho mục đích giao dịch, trao đổi hàng hóa. Với tiền tệ được phản ánh là đơn vị định giá của sản phẩm trên thị trường. Các quốc gia khác nhau phát hành và lưu thông những đơn vị tiền tệ khác nhau. Vậy lưu thông tiền tệ là gì? Tìm hiểu quy luật lưu thông tiền tệ?
Mục lục bài viết
1. Lưu thông tiền tệ là gì?
Lưu thông tiền tệ là tính chất lưu thông trên thị trường nhằm định giá cho hàng hóa, dịch vụ. Phản ánh sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế trong quy luật của nó. Tính chất lưu thông được thực hiện tư do theo nhu cầu của các chủ thể tham gia trong thị trường. Tuy nhiên, tiền tệ được phát hành bởi quốc gia nên được quản lý và giám sát với những mục đích lưu thông cụ thể. Các tính chất lưu thông được hình thành trước tiên thông qua phát hành tiền mặt. Trong tiến bộ và phát triển công nghệ và kỹ thuật, các lưu thông không dùng tiền mặt được sử dụng.
Với chức năng của tiền tệ là phương tiện trao đổi. Nhằm thực hiện việc mua bán hàng hóa, dịch vụ trong nhu cầu cơ bản. Các trao đổi được tiến hành không ngang bằng cần thiết một đơn vị tiền tệ trong quy đổi giá trị. Và thành toán các khoản nợ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Khi giá trị tiền tệ được xác định, con người có thể định giá trị cho các nghĩa vụ cần thực hiện. Đó cũng chính là ý nghĩa giúp tiền tệ mang lại giá trị trong nền kinh tế. Lưu thông tiền tệ là cách thức tác động và mang đến hiệu quả trong hoạt động hay phát triển kinh tế.
1.1. Lưu thông bằng tiền mặt:
Lưu thông bằng tiền mặt là cách thức lưu thông vật lý với các nhu cầu trong lưu thông. Khi sự vận động của tiền mặt bao gồm giấy bạc ngân hàng, tiền đúc bằng kim loại được phát hành và lưu thông. Ở nhiều quốc gia, hình thức tiền đúc vẫn được tham gia trong giao dịch. Với các sự vận động này nhằm thực hiện việc mua bán hàng hóa, dịch vụ, thanh toán nợ. Đảm bảo cho các nhu cầu trong trao đổi đa dạng hàng hóa. Cũng như thực hiện các quy đổi không ngang bằng. Các giá trị có thể được phản ánh thông qua các giao dịch trên thị trường.
Với ý nghĩa ngày càng được thể hiện từ tiền tệ, nhiều người có xu hướng tìm kiếm nhiều hơn tiền tệ thông qua tìm kiếm lợi nhuận hay lao động. Nói cách khác, lưu thông bằng tiền mặt khi hàng hóa dịch vụ và tiền tệ xuất hiện đồng thời trong lưu thông trên thị trường trao đổi. Tính chất của giao dịch phản ánh nhu cầu đồng thời của bên mua, bên bán hay các quan hệ tương tự khác. Đảm bảo cho tính chất giữa cán cân cung cầu trên thị trường.
Với tiền mặt phản ánh nhu cầu được thực hiện dễ dàng. Khi các nhu cầu có thể được thực hiện hầu hết có thể lựa chọn thanh toán tiền mặt. Cá đảm bảo trong quản lý, điều phối hay quy định nghiêm ngặt khác của Chính phủ. Từ đó mà các giá trị của tiền tệ có thể được đảm bảo ổn định. Đáp ứng tốt các nhu cầu thường xuyên của con người mà không tạo ra nhiều biến động.
1.2. Lưu thông không bằng tiền mặt:
Hình thức lưu thông này được thực hiện khi những tiến bộ thị trường được hình thành. Như việc ứng dụng các công nghệ hay nghiên cứu khoa học, kỹ thuật. Vẫn với các ý nghĩa cơ bản của lưu thông và nhu cầu của người sử dụng trên thị trường. Các lưu thông không bằng tiền mặt khi tiền thực hiện chức năng phương tiện trao đổi. Tuy nhiên nó mang đến một ý nghĩa thuận tiện và hữu hiệu khác. Nhằm thực hiện mua bán hàng hóa, dịch cụ thanh toán nợ nhưng bằng các công cụ sử dụng đồng tiền ghi sổ (tiền gửi có thể phát séc) ở các ngân hàng như: séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán…
Các giá trị của tiền tệ được phản ánh dưới các con số. Chủ sở hữu vẫn có các quyền thực hiện trong giao dịch bình thường. Ngoài ra, việc thực hiện nhu cầu chuyển đổi ra tiền mặt cũng được đáp ứng. Tính chất ghi sổ cần thiết có sự giám sát hay quản lý chật chẽ hơn. Hiện nay ở Việt nam, chỉ ngân hàng được nhà nước giao cho quyền hạn và trách nhiệm này. Đảm bảo cho các giao dịch được thực hiện hiệu quả. Tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trung ương trong việc quản lí và điều tiết lượng tiền cung ứng… Giảm đáng kể các chi phí lưu thông tiền mặt: in tiền, bảo quản, vận chuyển, đếm, đóng gói…
Ngoài ra các tính chất tội phạm công nghệ cao có thể mang đến hậu quả nghiêm trọng hơn. Do đó cần thiết xây dựng những bảo mật tạo an toàn và tin cậy cho chủ sở hữu. Cũng như mang đến uy tín và chất lượng cho hoạt động nghiệp vụ được ngân hàng thực hiện.
2. Quy luật lưu thông tiền tệ là gì?
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật được xây dựng và thực hiện trong quá trình tiền tệ được lưu thông trên thị trường. Phản ánh quy định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. Tính chất cân đối hay điều tiết này được thực hiện trong hoạt động quản lý của nhà nước. Đảm bảo cho các nhu cầu trong tìm kiếm lợi nhuận của từng cá nhân. Trong khi mang đến hiệu quả phát triển tích cực cho nền kinh tế. Đặc biệt là giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực từ lạm phát.
Muốn thực hiện được như vậy, cần thiết các cân đối nhu cầu phản ánh trong quy luật được xây dựng. Trong đó các quan tâm được phản ánh đối với các hàng hóa cũng như nhu cầu lưu thông trên thị trường. Khi đó, có thể tính toán các lượng tiền cần thiết để lưu thông mang lại hiệu quả. Vừa kích thích các buôn bán trao đổi. Vừa mang đến các giá trị lợi ích xứng đáng cho các bên trong giao dịch. Từ đó giúp cho nền kinh tế quốc gia phát triển so với các quốc gia khác. Tiền tệ phải phản ánh các giá trị đảm bảo mang không chịu các tác động quá lớn từ lạm phát làm cho đồng tiền mất giá.
3. Quy luật lưu thông tiền tệ được thể hiện như sau:
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu thông của đồng tiền.
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông = Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông / Tốc độ lưu thông của đồng tiền.
Được hiểu là việc tính toán các thực tế thị trường để điều tiết lượng tiền lưu thông cho hợp lý. Từ đó giúp phản ánh các giá trị của đồng tiền một cách hiệu quả. Bởi trên thực tế, nếu lượng tiền được lưu thông quá lớn dẫn đến sự mất giá trị. Phản ánh lạm phát và khiến hoạt động kinh tế không hiệu quả. Bởi các tỉ giá tiền tệ trên thị trường chịu tác động và quốc gia đó khó khăn trong xuất hay nhập khẩu. Nhu cầu mở rộng thị trường không được thực hiện khiến nhu cầu người dân không được đáp ứng.
Trong công thức này:
– Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn vị tiền tệ. Nó cũng phản ánh cán cân cung cầu thực tế trên thị trường. Khi nhìn thấy tiềm năng của giao dịch hay lợi nhuận qua đầu tư. Tiền tệ được tham gia và luân chuyển thường xuyên với các chủ sở hữu khác nhau. Phản ánh các tính chất quay vòng hay làm nên giá trị mới cho nền kinh tế.
– Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào lưu thông của hàng hóa ấy. Phản ánh các giá trị quy đổi ra tiền tệ của tất cả hàng hóa trong giai đoạn cụ thể. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả các loại hàng hóa lưu thông. Khi đó, giá trị này phản ánh nhu cầu được thực hiện trong khoảng thời gian nhất định.
Căn cứ vào hai tính chất này để nhà nước tính toán và cân đối lượng tiền sẽ thực hiện cho lưu thông trên thị trường. Mang đến hiệu quả nhất định đối với kinh tế. Khi đó các quy luật mang đến ý nghĩa cho nền kinh tế. Đảm bảo cho các phản ánh tích cực so với hiệu quả hoạt động.
4. Các lưu ý về quy luật lưu thông tiền tệ:
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định. Phản ánh đúng tính chất của hàng hóa lưu thông và nghĩa vụ thực hiện khi tham gia vào giao dịch. Cho nên khi ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:
– Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu thông trong thời kỳ đó. Đảm bảo cho các hàng hóa phản ánh đúng nhu cầu lưu thông và giao dịch, đưa tiền tệ vào lưu thông. Như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán hoặc để bán trong thời kỳ sau. Hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần thanh toán bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác. Hàng hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản…
– Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Với tính chất cần thiết sử dụng cho khoảng thời gian này, có thể lợi ích chưa được tìm thấy hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ. Như lượng tiền dùng để ứng trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau. Và lượng tiền mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.