Chắc hẳn chúng ta đã quá hiểu rõ về lạm phát là gì bởi vì lạm phát đã xảy ra ở rất nhiều hiện nay. Vấn đề này rất được sự quan tâm và để không mắc phải tình trạng lạm phát đối với mỗi quốc gia cần có kế hoạch riêng. Vậy lạm phát kèm suy thoái là gì? Nguyên nhân của lạm phát kèm suy thoái?
Mục lục bài viết
1. Lạm phát kèm suy thoái là gì?
Vấn đề lạm phát chắc hẳn đã không còn xa lạ gì, nhưng vấn đề lạm phát kèm suy thoái (stagflation) là tình hình sản lượng suy giảm (suy thoái) trong khi giá cả tăng (lạm phát). Như vậy với tình trạng lạm phát kèm suy thoái có thể do hai nguyên nhân đồng thời gây ra (1) sự thiếu hụt tổng cầu so với sản lượng tiềm năng (2) chi phí đầu vào nhân tố tăng.
Trên thực tế thông qua tình trạng lạm phát chúng ta thấy nó luôn kèm theo sự suy thoái đã trở thành vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nước trong những năm 1970 và 1980. Với nội dung này đã có ột số nhà kinh tế cho rằng tác động tổng hợp của sức ép lạm phát do chi phí đẩy có nguyên nhân ở những đợt gia tăng giá đầu vào năm 1973 và 1979, và ở những hậu quả giảm phát của tình trạng sức mua thực tế bị giảm sút ở các nước tiêu dùng dầu mỏ đi kèm với các lần tăng giá. Như vậy với các tác động này còn bị sự hình thành kỳ vọng về lạm phát cao hơn khuếch đại lên.
Chính sách tài chính và tiền tệ dựa trên quan điểm chính thống về mối quan hệ đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp (biểu thị bằng đường Philips) trở lên bất lực trong tình hình mới này. Vì vậy, nhiều nước đã chuyển sang các phương pháp tiếp cận khác. Chằng hạn nước Mỹ đã chuyển sang kinh tế học trọng cung.
Như vậy, Lạm phát kèm suy thoái là một nội dung của sự tăng trưởng kinh tế chậm và tỉ lệ thất nghiệp tương đối cao hay cũng có thể là vấn đề trì trệ kinh tế kèm theo giá cả tăng hoặc lạm phát. Lheo đó nên tình trạng này cũng có thể được định nghĩa là lạm phát kèm giảm tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Sự xuất hiện của lạm phát kèm suy thoái
Khi nhắc tới “Lạm phát kèm suy thoái” ta đã nghe rất nhiều nhưng ít ai biết nó bắt nguồn và xuất hiện từ đâu, cụ thể thì lần đầu tiên được sử dụng bởi chính trị gia Iain Macleod trong thời kì căng thẳng kinh tế ở Anh vào những năm 1960 khi ông phát biểu tại Hạ viện. Vào thời điểm đó, ông đã phát biểu một mặt về lạm phát, mặt kia là suy thoái và gọi đó là “tình trạng trì trệ”.
Sau đó, nó đã được sử dụng một lần nữa để mô tả thời kì suy thoái trong những năm 1970 sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ, khi Hoa Kỳ trải qua một cuộc suy thoái làm cho 5/4 tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng âm. Lạm phát đã tăng gấp đôi vào năm 1973 và đạt hai con số vào năm 1974, thất nghiệp đạt 9% vào tháng 5 năm 1975.
2. Nguyên nhân của lạm phát kèm suy thoái:
Trên thực tế có rất nhiều các nhà kinh tế đưa ra hai giải thích chính về lý do tại sao lạm phát kèm suy thoái xảy ra cụ thể các nguyên nhân như:
Thứ nhất, lạm phát có thể xảy ra khi nền kinh tế đối mặt với cú sốc về nguồn cung cấp, chẳng hạn như sự gia tăng nhanh chóng của giá dầu. Một tình huống bất lợi như vậy có xu hướng gây tăng giá cùng một lúc vì nó làm chậm tăng trưởng kinh tế bằng cách làm cho sản xuất tốn kém hơn và ít lợi nhuận hơn.
Thứ hai, chính phủ có thể gây ra lạm phát kèm suy thoái nếu chính phủ tạo ra các chính sách gây hại cho các ngành công nghiệp trong khi cung tiền tăng quá nhanh. Hai điều này có thể sẽ xảy ra đồng thời bởi vì các chính sách làm chậm tăng trưởng kinh tế thường không gây ra lạm phát, và các chính sách gây ra lạm phát thường không làm chậm tăng trưởng kinh tế.
Cả hai cách giải thích được đưa ra trong các phân tích của lạm phát kèm suy thoái toàn cầu của những năm 1970. Nó bắt đầu với một sự gia tăng lớn về giá dầu, nhưng sau đó tiếp tục vì các ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ kích thích quá mức để chống lại kêt quả của sự suy thoái và cuối cùng gây ra một vòng xoáy giá / tiền lương.
3. Các giả thuyết về nguyên nhân của lạm phát kèm suy thoái:
Nguyên nhân đầu tiên chung tôi nhắc tới đó là vấn đề lạm phát do cầu kéo được hiểu là nếu như nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó có chiều hướng tăng lên, sẽ kéo theo giá cả cũng tăng. Bên cạnh đó nó cũng sẽ dẫn đến giá cả của hàng loạt hành hóa khác cũng “leo thang”. Như vậy, giá trị của đồng tiền cũng bị mất giá, do đó, người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để mua một hàng hóa hoặc sử dụng một dịch vụ.
Lạm phát do chi phí đẩy được liệt kê là giá cả nguyên liệu mua vào, thuế, tiền lương công nhân, chi phí bảo hiểm, tiền máy móc,… của một doanh nghiệp. Một khi những chi phí này tăng lên sẽ buộc doanh nghiệp phải tăng giá sản phẩm để đảm bảo thu được lợi nhuận. Điều này dẫn đến tình trạng mức giá chung của toàn thể kinh tế tăng theo.
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, nhưng do là mặt hàng được cung cấp độc quyền nên bên cung ứng vẫn không thể giảm giá. Trong khi đó lượng cầu về một mặt hàng khác tăng lên và đồng thời giá cũng tăng.
Chính vì sự khởi đầu của lạm phát kèm suy thoái đại diện cho sự thất bại lớn của các lí thuyết kinh tế thống trị thời bấy giờ, các nhà kinh tế kể từ đó đã đưa ra một số lập luận về cách lạm phát kèm suy thoái xảy ra hoặc làm thế nào để xây dựng lại các giới hạn của các lí thuyết kinh tế hiện có để giải thích hiện tượng này.
Một giả thuyết cho rằng hiện tượng kinh tế này xảy ra khi chi phí dầu tăng đột ngột làm giảm năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vào tháng 10 năm 1973, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã ban hành lệnh cấm vận đối với các nước phương Tây. Điều này khiến giá dầu toàn cầu tăng mạnh, do đó làm tăng chi phí hàng hóa và góp phần làm tăng tỉ lệ thất nghiệp. Bởi vì chi phí vận chuyển tăng lên, việc sản xuất sản phẩm và đưa chúng lên kệ trở nên đắt đỏ hơn, giá cả tăng ngay cả khi công nhân đã nghỉ việc.
Một lí thuyết khác chỉ ra là sự kết hợp của sự đình trệ và lạm phát là kết quả của chính sách kinh tế thực hiện kém. Qui định khắc nghiệt của thị trường, hàng hóa và lao động trong một môi trường lạm phát khác được nêu ra là có thể là nguyên nhân của lạm phát kèm suy thoái.
Một số ý kiến chỉ ra rằng các chính sách được đặt ra bởi cựu Tổng thống R. Nixon, có thể đã dẫn đến suy thoái kinh tế năm 1970. Nixon đã áp thuế vào hàng nhập khẩu và đóng băng tiền lương và giá cả trong 90 ngày để nỗ lực ngăn giá cả tăng. Cú sốc kinh tế đột ngột của tình trạng thiếu dầu và tăng giá nhanh đã xảy ra ngay khi các biện pháp kiểm soát của chính phủ được thiết lập dẫn đến hậu quả hỗn loạn kinh tế.
Các nhà kinh tế khác thì chỉ trích ý tưởng về mối quan hệ ổn định giữa lạm phát và thất nghiệp với lí do mọi người chỉ cần điều chỉnh hành vi kinh tế của họ với mức giá tăng hoặc là theo phản ứng hay kì vọng thay đổi chính sách tiền tệ. Do đó, giá cả tăng lên trong nền kinh tế để phản ứng với chính sách tiền tệ mở rộng, tỉ lệ thất nghiệp có thể tăng hoặc giảm bởi những cú sốc trong nền kinh tế.
Như vậy căn cứ dựa trên nội dung trên ta thấy với sự đồng tình về lạm phát kèm suy thoái giữa hầu hết các nhà kinh tế, tài chính và các nhà hoạch định chính sách về cơ bản là xác định lại ý nghĩa của thuật ngữ lạm phát trong thời kì của hệ thống tiền tệ và tài chính hiện đại. Mức giá liên tục tăng và sức mua của tiền giảm, tức là lạm phát, chỉ được coi là điều kiện cơ bản, bình thường trong nền kinh tế, xảy ra ngay cả trong thời kì tăng trưởng kinh tế cũng như trong suy thoái.
Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách thường cho rằng giá sẽ tăng và chủ yếu tập trung vào việc tăng hay giảm lạm phát hơn là bản thân lạm phát. Như vậy nên với giai đoạn gia tăng của lạm phát kèm suy thoái trong những năm 1970 có thể là một ghi chú lịch sử ngày hôm nay nhưng kể từ đó lạm phát kèm suy thoái và mức giá tăng cao theo một nghĩa nào đó tạo nên sự bình thường mới trong thời kì suy thoái kinh tế.