Lãi suất liên bang là thuật ngữ rất quen thuộc trong kinh tế, cụ thể nó chỉ lãi suất ngân hàng tính phí lẫn nhau để quỹ dự chữ liên bang cho vay qua đêm, đây cũng chính là loại công cụ mà ngân hàng trung ương quốc gia sử dụng để kiểm soát sự tăng trưởng kinh tế của hoa kì. Vậy lãi suất quỹ liên bang là gì? Tầm quan trọng của lãi suất quỹ liên bang?
Mục lục bài viết
1. Lãi suất quỹ liên bang là gì?
Lãi suất quĩ liên bang trong tiếng Anh là Federal Funds Rate, viết tắt là FFR.
Chắc hẳn trong kinh tế chúng ta không còn xa lạ với thuật ngữ lãi suất quĩ liên bang đề cập đến lãi suất qua đêm mà các ngân hàng thu từ các ngân hàng khác khi cho vay tiền từ số dư dự trữ bắt buộc của chúng. Theo luật pháp, các ngân hàng phải duy trì khoản dự trữ theo một tỉ lệ nhất định với tiền gửi của chúng trong tài khoản tại Cục Dự trữ Liên bang.
Trên thực tế chúng ta có thể thấy lãi suất liên bang được biết đến là loại lãi suất dành cho nội bộ hệ thống các ngân hàng thương mại vay mượn nhau qua đên để đạt được lượng dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng trung ương. Những ngân hàng có cân đối dự trữ vượt yêu cầu có thể sử dụng khoản vượt này để cho các ngân hàng bị hụt vay tạm. Các khoản cho vay tình thế này tại Mỹ thường được thực hiện với số tiền tương đối lớn, từ một triệu USD trở lên. Nhưng vói các khoản nợ này luôn luôn được thực hiện trên cơ sở một ngày đáo hạn xác định, chúng có thể được gia hạn thêm.
Hiện nay ta thấy với lí do Ngân hàng Trung ương kiểm tra rất chặt chẽ các khoản dự trữ bắt buộc, lãi suất liên bang được xem là một hàn thử biểu quan trọng về chính sách tiền tệ của nhà nước và chiều hướng tương lai của các loại lãi suất khác. Theo đó ta thấy các nhà phân tích tài chính theo dõi sát sao diễn biến nhạy cảm trong lĩnh vực này để có thể đưa ra dự đoán về những thay đổi sắp xảy ra trên các thị trường tín dụng.
Như vậy với lãi suất liên bang sụt giảm có thể cho thấy là Ngân hàng trung ương đã quyết định kích thích nền kinh tế bằng cách nới lỏng các khoản dự trữ áp dụng cho cả hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó với các nhà tài chính khuyến cáo ta nên thận trọng khi sử dụng chỉ số này, và khi sử dụng cần kết hợp các chỉ số khác để xác định.
Như vậy ta thấy đây là loại lãi suất có biến động nhiều nhất trong các loại lãi suất. Theo đó nên nó có sự thay đổi hằng ngày để phản ánh nhu cầu vốn cần điều chuyển qua lại giữa các ngân hàng cho hoạt động tín dụng của mình.
2. Tầm quan trọng của lãi suất quỹ liên bang:
Bất kì khoản tiền nào vượt mức dữ trữ bắt buộc của chúng đều có thể đem cho các ngân hàng khác vay.
Lãi suất quĩ liên bang chủ yếu liên quan tới nền kinh tế Mỹ.
Ngân hàng và các tổ chức giữ tiền gửi khác được yêu cầu duy trì các tài khoản phi lãi suất tại các ngân hàng của Hệ thống Dự trữ Liên bang để đảm bảo rằng chúng sẽ có đủ tiền để trả cho các khoản rút tiền của người gửi và đáp ứng các nghĩa vụ khác.
Số tiền ngân hàng phải giữ lại trong tài khoản của mình được gọi là dự trữ bắt buộc và được tính dựa trên tỉ lệ phần trăm của tổng số tiền gửi của ngân hàng.
Số dư cuối ngày trong tài khoản của ngân hàng, tính trung bình trong thời gian dự trữ bắt buộc là hai tuần, được sử dụng để xác định xem có đáp ứng yêu cầu dự trữ hay không.
Nếu một ngân hàng dự kiến sẽ có số dư cuối ngày lớn hơn mức cần thiết thì có thể cho vay số tiền vượt mức cho một ngân hàng khác dự đoán số dư của nó sẽ thiếu hụt. Lãi suất mà ngân hàng cho vay có thể yêu cầu được gọi là lãi suất quĩ liên bang.
FOMC không thể buộc các ngân hàng sử dụng chính xác lãi suất đó mà đặt ra lãi suất mục tiêu. Lãi suất thực tế mà các ngân hàng cho nhau vay được xác định thông qua các cuộc đàm phán giữa các ngân hàng.
Mặc dù FOMC không thể bắt buộc sử dụng một lãi suất quĩ liên bang cụ thể, Hệ thống Dự trữ Liên bang có thể điều chỉnh lượng cung tiền để lãi suất sẽ hướng đến lãi suất mục tiêu. Tăng cung tiền có thể khiến lãi suất giảm và theo đó sẽ giảm cung tiền có thể khiến cho lãi suất tăng.
Tầm quan trọng của lãi suất quĩ liên bang
Lãi suất quĩ liên bang là một trong những mức lãi suất quan trọng nhất trong nền kinh tế Mỹ vì nó ảnh hưởng đến các điều kiện tài chính và tiền tệ, do đó tác động đến các khía cạnh quan trọng khác của nền kinh tế bao gồm việc làm, tăng trưởng và lạm phát.
Lãi suất này cũng ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất ngắn hạn của mọi thứ từ cho vay mua nhà và xe hơi đến lãi suất thẻ tín dụng, vì người cho vay thường thiết lập lãi suất dựa trên lãi suất cho vay cơ bản. Lãi suất cơ bản là lãi suất mà các ngân hàng tính cho những người vay đảm bảo nhất của họ và cũng bị ảnh hưởng bởi lãi suất liên bang.
Các nhà đầu tư theo dõi sát sao lãi suất quĩ liên bang. Thị trường chứng khoán thường phản ứng rất mạnh mẽ với những thay đổi trong lãi suất mục tiêu; ngay cả một sự sụt giảm nhỏ trong lãi suất quĩ liên bang có thể thúc đẩy thị trường tăng vọt. Nhiều nhà phân tích chứng khoán đặc biệt chú ý đến các tuyên bố của các thành viên trong FOMC để cố gắng đoán được lãi suất mục tiêu được nhắm đến.
3. Làm thế nào Fed sử dụng lãi suất liên bang để kiểm soát nền kinh tế?
FOMC thay đổi lãi suất để kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế lành mạnh. Các thành viên FOMC theo dõi các chỉ số kinh tế cho các dấu hiệu lạm phát hoặc suy thoái. Chỉ số chính của lạm phát là tỷ lệ lạm phát cốt lõi. Các chỉ số quan trọng cho một cuộc suy thoái là báo cáo hàng hóa lâu bền.
Có thể mất 12 đến 18 tháng để thay đổi tỷ lệ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Để lên kế hoạch cho đến nay, Fed đã trở thành chuyên gia về dự báo nền kinh tế. Cục dự trữ liên bang sử dụng 450 nhân viên, khoảng một nửa trong số đó là tiến sĩ, các nhà kinh tế.
Khi Fed tăng lãi suất, nó được gọi là chính sách tiền tệ thắt chặt. Lãi suất liên bang cao hơn có nghĩa là các ngân hàng ít có khả năng vay tiền để giữ dự trữ của họ ở mức bắt buộc. (Thêm về điều này dưới đây.) Kết quả là, họ cho vay ít tiền hơn. Tiền họ cho vay sẽ ở mức cao hơn vì họ đang vay tiền với lãi suất cho vay cao hơn. Bởi vì các khoản vay khó có được hơn và đắt hơn, các doanh nghiệp sẽ ít có khả năng vay. Điều này sẽ làm chậm nền kinh tế.
Khi điều này xảy ra, các khoản thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh trở nên đắt đỏ hơn. Người mua nhà chỉ có thể trả các khoản vay nhỏ hơn, làm chậm ngành công nghiệp nhà ở. Giá nhà đất đi xuống. Chủ nhà có ít vốn chủ sở hữu nhà của họ và cảm thấy nghèo hơn. Họ chi tiêu ít hơn, do đó làm chậm hơn nền kinh tế.
Lãi suất liên bang đã lên tới 20%, vào năm 1979. Chủ tịch Fed Paul Volcker đã sử dụng nó để chống lạm phát hai con số.
Khi Fed hạ lãi suất, điều ngược lại xảy ra. Các ngân hàng có nhiều khả năng vay lẫn nhau để đáp ứng yêu cầu dự trữ của họ khi lãi suất thấp. Giá thẻ tín dụng giảm, vì vậy người tiêu dùng mua sắm nhiều hơn. Với việc cho vay ngân hàng rẻ hơn, các doanh nghiệp mở rộng. Đây được gọi là chính sách tiền tệ mở rộng.
Các khoản vay mua nhà có thể điều chỉnh trở nên rẻ hơn, giúp cải thiện thị trường nhà đất. Chủ nhà cảm thấy giàu hơn và chi tiêu nhiều hơn. Họ cũng có thể thực hiện các khoản vay vốn chủ sở hữu nhà dễ dàng hơn, chi số tiền đó cho việc cải thiện nhà và xe mới. Những hành động này kích thích nền kinh tế.
Vì lý do này, các nhà đầu tư thị trường chứng khoán xem các cuộc họp FOMC hàng tháng như nới lỏng. Giảm 0,25 điểm phần trăm trong lãi suất liên bang, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, đưa thị trường lên cao hơn trong tưng bừng. Nếu nó kích thích tăng trưởng quá nhiều, nó có thể kích hoạt lạm phát.
Trong khi đó, lãi suất liên bang tăng 0,25 điểm, nhằm kiềm chế lạm phát, có thể làm chậm tăng trưởng và thúc đẩy sự sụt giảm trên thị trường. Các nhà phân tích chứng khoán đã tiết lộ từng từ mà bất kỳ ai trong FOMC thốt ra, cố gắng giải mã những gì Fed sẽ làm.