Hiện nay tới xã hội ngày nay có rất nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng đã đưa ra những quan điểm kinh tế có ý nghĩa sâu săc cho sự phát triển và hoạt động của nền kinh tế, theo đó chúng ta thấy rằng rất nhiều học thuyết về kinh tế ra đời. Cùng bài viết tìm hiểu về kinh tế học dòng chính là gì? Nội dung về kinh tế học dòng chính?
Mục lục bài viết
1. Kinh tế học dòng chính là gì?
Kinh tế học dòng chính trong tiếng Anh là Mainstream Economics. Thuật ngữ này còn có tên gọi khác là kinh tế học chính thống trong tiếng Anh là orthodox economics.
Kinh tế học dòng chính là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả các trường phái tư tưởng kinh tế được coi là chính thống. Các phạm trù nền tảng bên trong và các khái niệm căn bản của kinh tế học dòng chính được giảng dạy dễ dàng tại các trường đại học.
Nhiều mô hình và tư tưởng nền tảng được củng cố dựa trên các khái niệm liên quan đến sự khan hiếm kinh tế, vai trò các qui tắc của chính phủ hoặc hành động khác trong việc thực hiện quyết định cá nhân, khái niệm về hữu dụng và ý tưởng rằng mọi người là các tác nhân hợp lí và đưa ra quyết định hoàn toàn dựa trên thông tin có sẵn, không cảm xúc.
Kinh tế học dòng chính hay kinh tế học chính thống thường nó sẽ được sử dụng để mô tả các lí thuyết thường được coi là một phần của kinh tế học tân cổ điển truyền thống mà kinh tế học dòng chính tuân theo lí thuyết lựa chọn hợp lí, giả định rằng các cá nhân đưa ra quyết định sẽ tối đa hóa tiện ích của họ và sử dụng các mô hình thống kê và toán học để chứng minh lí thuyết và đánh giá sự phát triển kinh tế khác nhau.
Kinh tế học chính thống đây được xem là phần kiến thức về kinh tế, lý thuyết và mô hình kinh tế đưa vào chương trình của các trường đại học trên toàn thế giới với các quan điểm về kinh tế chính thống, và thường được các nhà kinh tế chấp nhận làm cơ sở để thảo luận và nó còn được gọi là kinh tế học dòng chính, nó có thể trái ngược với kinh tế học không chính thống, bao gồm nhiều trường phái hoặc phương pháp tiếp cận chỉ được một số ít các nhà kinh tế học chấp nhận.
Như vạy chúng ta thấy với ngành kinh tế học gắn liền với kinh tế tân cổ điển và với tổng hợp tân cổ điển, và từ giữa thế kỷ 20, đã bao gồm cách tiếp cận của Keynes đối với kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, tuyên bố này đã bị thách thức bởi các nhà sử học nổi tiếng về tư tưởng kinh tế như David Collander. Họ lập luận các lý thuyết chủ đạo kinh tế hiện nay cụ thể với các llý thuyết trò chơi, kinh tế học hành vi, tổ chức công nghiệp, kinh tế thông tin…chia sẻ rất ít điểm chung với các tiên đề ban đầu của kinh tế học tân cổ điển.
2. Nội dung về kinh tế học dòng chính:
Kinh tế luôn đề cao nhiều trường phái tư tưởng kinh tế, với các trường phái kinh tế cụ thể mang điểm khác nhau có sự nổi bật khác nhau giữa các quốc gia và theo thời gian với việc sử dụng hiện tại của thuật ngữ kinh tế chính thống đây được biết đến chính là đặc trưng cho thời kỳ Thế chiến II sau thời kỳ Thế chiến II, đặc biệt là trong thế giới nói tiếng Anh, và ở mức độ thấp hơn trên toàn cầu.
Trước sự phát triển và phổ biến của kinh tế học cổ điển, trường phái thống trị ở châu Âu là chủ nghĩa trọng thương, đó là một tập hợp các ý tưởng liên quan lỏng lẻo hơn là một trường được thể chế hóa với sự phát triển của kinh tế học hiện đại, theo quy ước là Sự giàu có của các quốc gia cuối thế kỷ 18 của Adam Smith, kinh tế học Anh đã phát triển và bị chi phối bởi cái mà ngày nay gọi là trường phái cổ điển. Như chúng ta đã biết đến cuốn sách với sự giàu có của các quốc gia cho đến cuộc đại khủng hoảng, trường phái thống trị trong thế giới nói tiếng Anh là kinh tế học cổ điển, và trường phái kế thừa của nó, kinh tế tân cổ điển trong lục địa châu Âu, công việc trước đây của physiocrats ở Pháp thành lập một truyền thống riêng biệt, cũng như công việc sau này của các lịch sử các trường phái kinh tế học ở Đức, và trong suốt thế kỷ 19 đã có cuộc tranh luận về kinh tế Anh, đặc biệt là sự phản đối trường phái underconsumptionist.
Có thể nói trong cuộc Đại khủng hoảng và chiến tranh thế giới thứ hai sự xuất hiện của trường phái kinh tế học Keynes đã thu hút sự chú ý, được xây dựng dựa trên công trình của trường phái ngầm, và kinh tế học chính thống ngày nay bắt nguồn từ sự tổng hợp tân cổ điển, đó là sự sáp nhập sau thế chiến II của kinh tế vĩ mô Keynes và kinh tế vi mô tân cổ điển.
Bên cạnh đó ta thấy ở châu Âu lục địa, kinh tế học Keynes đã bị từ chối, với tư tưởng Đức bị chi phối bởi trường phái Freiburg, với triết lý chính trị của chủ nghĩa giáo dục đã hình thành nên nền tảng trí tuệ của nền kinh tế thị trường xã hội sau chiến tranh của Đức và trong các nền kinh tế đang phát triển, nơi hình thành phần lớn dân số thế giới, nhiều trường phái kinh tế phát triển khác nhau đã có ảnh hưởng.
Kể từ năm 2007, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tiếp theo đã công khai phơi bày sự chia rẽ trong kinh tế học và thúc đẩy thảo luận.
Kinh tế học dòng chính, nghiên cứu về các tác nhân hợp lí trong một thế giới có sự đánh đổi, đã có một số thách thức và với các trường phái tư tưởng kinh tế bên ngoài kinh tế học dòng chính, được gọi là kinh tế học không chính thống, nghi ngờ nhiều hơn về vai trò của chính phủ và sự hợp lí của các chủ thể. Sự chỉ trích chính của kinh tế học dòng chính là không có sự cân nhắc liên quan đến các yếu tố bên ngoài.
Ví dụ, kiểu tư tưởng kinh tế này giả định sự hợp lí hoàn toàn của các tác nhân. Nó giả định rằng các cá nhân là ích kỉ và sẽ luôn hành động vì lợi ích tốt nhất của riêng họ. Không có chỗ cho những mối quan tâm về đạo đức hay lòng vị tha trong kinh tế học dòng chính và bàn tay vô hình được cho là sẽ dịch chuyển thị trường mà không hề e ngại hay thiên vị.
Nhưng các nhà lí thuyết kinh tế gần đây đã trở nên cởi mở hơn với suy nghĩ rằng mọi người không hoàn toàn hợp lí. Trên thực tế, một lĩnh vực nghiên cứu hoàn toàn mới, được gọi là kinh tế học hành vi, đã xuất hiện cho ngành học này.
Thị trường cũng không hoàn toàn hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của một tác nhân không phải lúc nào cũng có thể định lượng được. Những tư tưởng này dường như đã trở nên phổ biến hơn kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Kinh tế học dòng chính cũng không tập trung vào các mối quan tâm kinh tế đạt được động lực, chẳng hạn như sự bền vững và ô nhiễm môi trường. Một lần nữa, kinh tế môi trường là một lĩnh vực riêng biệt nghiên cứu sự khuyến khích và hoạch định chính sách đặc biệt hướng tới việc thúc đẩy sự giao thiệp và hoạt động kinh doanh bền vững.
3. Ví dụ về kinh tế học dòng chính:
Những lí thuyết ban đầu liên quan đến sự phát triển của kinh tế học như một lĩnh vực nghiên cứu là một phần của kinh tế học dòng chính. Ví dụ, lí thuyết bàn tay vô hình chỉ ra rằng việc dịch chuyển thị trường là một phần của kinh tế học dòng chính. Trong lí thuyết này, lợi ích cá nhân và tự do sản xuất và tiêu thụ được cho là để tối đa hóa lợi ích chung.
Các chính phủ có rất ít vai trò trong lí thuyết này, ngoại trừ việc đảm bảo rằng luật pháp được tuân thủ và bên cạnh đó với các sự kiện gần đây, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến cuộc Đại suy thoái, đã chứng minh rằng lợi ích chung không phải lúc nào cũng là kết quả cuối cùng của việc các cá nhân theo đuổi lợi nhuận.
Như vậy từ cất cả các thông tin trên đây ta thấy kinh tế học dòng chính à công cụ chính được sử dụng để phân tích và tư duy cũng như đưa ra chính sách công trong nhiều thế kỷ qua và bên cạnh đó là lý thuyết thị trường hiệu quả với giá chứng khoán là đúng và phản ánh đúng giá trị của chúng, không thể đoán được giá chứng khoán. Lý thuyết bước ngẫu nhiên của Burton Malkiel: “Một con khỉ được bịt mắt ném phi tiêu vào các trang tài chính của một tờ báo có thể chọn được một danh mục đầu tư tốt bằng danh mục được chọn lựa một cách cẩn thận bởi các chuyên gia.”