Kinh tế học cổ điển là trường phái hiện nay được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của kinh tế để có thể giải thích các vấn đề của con người, với lí thuyết kinh tế cổ điển này là một trong những hệ thống chính sách quân chủ theo từ trên xuống dưới. Vậy kinh tế học cổ điển là gì? Sự ra đời và phát triển của kinh tế học cổ điển?
Mục lục bài viết
1. Kinh tế học cổ điển là gì?
Kinh tế học cổ điển trong tiếng Anh là Classical economics.
Chắc hẳn chúng ta đã nghe rất nhiều tới nền kinh tế học cổ điển là một thuật ngữ rộng dùng để chỉ trường phái tư tưởng chủ yếu trong kinh tế học ở thế kỉ XVIII và XIX. Đa số coi nhà kinh tế người Scotland Adam Smith là người khởi xướng lí thuyết kinh tế học cổ điển. Tuy nhiên, các học giả Tây Ban Nha và các nhà vật lí Pháp đã có những đóng góp trước đó. Những người đóng góp đáng chú ý khác cho kinh tế học cổ điển bao gồm David Ricardo, Thomas Malthus, Anne Robert Jacques Turgot, John Stuart Mill, Jean-Baptiste Say và Eugen Böhm von Bawerk.
Hay chúng ta hiểu theo cách khác kinh tế học cổ điển hay kinh tế chính trị cổ điển được hiểu là một nội dung của kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để giải thích các hoạt động kinh tế của xã hội loài người trong đó giả định quan trọng nhất là nền kinh tế có thể tự điều chỉnh dựa trên các quy luật tự nhiên của việc sản xuất và trao đổi hàng hóa. Đây là một trong những xu hướng tư tưởng kinh tế để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận thuyết kinh tế. Theo như lí thuyết này có rất nhiều lí thuyết của trường phái này vẫn còn có ảnh hưởng đến tận ngày nay.
2. Sự ra đời và phát triển của kinh tế học cổ điển:
Các nền dân chủ tự điều chỉnh và phát triển thị trường tư bản là cơ sở cho kinh tế học cổ điển. Trước sự phát triển của kinh tế học cổ điển, hầu hết các nền kinh tế quốc dân đều tuân theo hệ thống chính sách quân chủ từ trên xuống dưới, chỉ huy và kiểm soát.
Nhiều nhà tư tưởng cổ điển nổi tiếng nhất, bao gồm Smith và Turgot, đã phát triển lí thuyết của họ như là một sự thay thế cho các chính sách bảo hộ và chính sách lạm phát của chủ nghĩa trọng thương châu Âu. Kinh tế học cổ điển trở nên gắn liền với nền kinh tế và sau này là chính trị và quyền tự do.
Lí thuyết kinh tế cổ điển được phát triển ngay sau khi chủ nghĩa tư bản phương Tây ra đời và Cách mạng Công nghiệp. Các nhà kinh tế học cổ điển cung cấp một cách tốt nhất những nỗ lực ban đầu để giải thích hoạt động bên trong của chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh tế cổ điển ngay sau đó đã phát triển các lí thuyết về giá trị, giá cả, cung, cầu và phân phối.
Lí thuyết gần như loại bỏ tất cả sự can thiệp của chính phủ vào thị trường giao dịch và ưa thích một thị trường thả lỏng hơn được biết với cách gọi là “tự do kinh tế” hay “hãy để như nó vốn có”.
Các nhà tư tưởng cổ điển không hoàn toàn thống nhất trong niềm tin và hiểu biết của họ về thị trường mặc dù có những đề tài chính đáng chú ý trong hầu hết các tài liệu cổ điển. Đa số ủng hộ thương mại tự do và cạnh tranh giữa các công nhân và doanh nghiệp. Các nhà kinh tế học cổ điển muốn chuyển đổi ra khỏi cấu trúc xã hội dựa trên giai cấp để ủng hộ chế độ nhân tài.
Ví dụ thực tế về lí thuyết kinh tế học cổ điển trong thực nghiệm
Như chúng ta đã từng biết tại cuốn sách được phát hành năm 1776 của Adam Smith “Sự giàu có của các quốc gia” (The Wealth of Nations) nhấn mạnh một số phát triển nổi bật nhất trong kinh tế học cổ điển. Những tiết lộ của ông tập trung vào thương mại tự do và một khái niệm về “bàn tay vô hình” đóng vai trò là lí thuyết cho giai đoạn đầu của cung và cầu trong nước và quốc tế.
Trong lí thuyết này, các lực lượng của hai phía và sức cạnh tranh của phía cầu và phía cung làm dịch chuyển thị trường đến trạng thái cân bằng của giá cả và sản lượng. Các nghiên cứu của Smith đã giúp thúc đẩy thương mại trong nước và dẫn đến việc định giá hợp lí và hiệu quả hơn trên thị trường hàng hóa dựa trên cung và cầu.
3. Những đặc điểm riêng biệt của kinh tế học cổ điển:
Không công nhận chính sách bảo hộ mậu dịch của nhà nước và chú trọng phân tích các vấn đề của lĩnh vực sản xuất trong sự tách biệt khỏi lĩnh vực giao thương và có thể đề xuất và áp dụng các phương pháp nghiên cứu tiến bộ như phương pháp nguyên nhân-hậu quả, suy diễn, quy nạp, logic trừu tượng. Nhưng theo đó việc đặt ra vấn đề dối lâp giữa hai lĩnh vực sản xuất và sự giao thương đã làm cho các nhà kinh tế học cổ điển nhận định về các vấn đề này không chính xác và đầy đủ theo những liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực đó, trong đó có ảnh hưởng của các yếu tố giao thương lên quá trình sản xuất.
Hiện nay ta thấy hoàn toàn có thể dựa trên phương pháp phân tích nguyên nhân-hậu quả, tính toán các chỉ số kinh tế trung bình, các nhà “cổ điển” tìm cách làm sáng tỏ cơ cấu hình thành giá trị hàng hóa. Theo đó người ta nhận định với những dao động của giá cả trên thị trường không liên quan đến các giá trị tự nhiên của tiền và số lượng của chúng, mà liên quan đến các chi phí sản xuất, hay nói cách khác, đến số lượng lao động bỏ ra.
Phạm trù giá trị vào thời đó được đánh giá là mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ để nảy mầm các phạm trù khác. Vấn đề giá trị hàm chứa các câu hỏi như sau cụ thể như với các giá trị biểu hiện giống như một hiện tượng và các dạng thức của nó thế nào? Cơ sở, nguồn gốc hay nguyên nhân nào của giá trị? Giá trị có đại lượng hay không và cách xác định đại lượng đó như thế nào? Cái gì có thể dùng để đo giá trị? Giá trị thực hiện chức năng nào trong lý thuyết kinh tế? Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho khoa học kinh tế hướng đến phát minh các quy luật mang tính cơ học, tương tự như trong vật lý học, nghĩa là không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã hội khác.
Như chúng ta đã biết thì vơi sự tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được cho là không phải dựa vào nguyên tắc xuất siêu, mà là sự năng động và cân bằng trạng thái nền kinh tế quốc gia. Như vậy nên với vấn đề này thì các nhà “cổ điển” không vận dụng các phương pháp phân tích toán học hay mô hình toán học để có thể chọn ra phương án tối ưu trong số các phương án về tình trạng kinh tế. Trường phái cổ điển đưa ra các giả thuyết để chứng minh sự cân bằng trong kinh tế là có thể đạt được một cách tự động theo quy luật thị trường của Jean-Baptiste Say
Đã có rất nhiều người cho rằng tiền tệ được cho là của con người tạo ra một cách chủ quan và hiện thì đến giai đoạn của trường phái cổ điển tiền tệ được cho là một dạng hàng hóa tách biệt từ trong thế giới hàng hóa, và chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên, chức năng của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật.
4. So sánh kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cổ điển:
Theo như chúng ta theo dõi các thông tin nhu trên có thể thấy với ninh tế học cổ điển có rất nhiều điểm khác với các trường phái khác ở chỗ nó bao gồm cả lý thuyết về dân số. Trường phái này cũng có rất nhiều điểm yếu của nó là không xử lý đúng khái niệm tổng cầu và thiếu sự rõ ràng trong việc nêu ra các yếu tố quyết định mức cung về vốn để đáp ứng nhu cầu thanh toán tiền lương (tức quỹ lương) và đầu tư mua sắm tài sản cố định
Nếu chúng ta dựa trên các phương pháp luận để xem xét thì kinh tế học cổ điển chia thành hai trường pháo. Một trường phái đi theo phương pháp quy nạp (ví dụ A. Smith). Nó tạo ra các tiền đề rút ra từ kinh nghiệm, lập luận trên cơ sở những tiền đề, quy luật này và kiểm định kết quả bằng cách sử dụng số liệu thực nghiệm.
Bên cạnh đó còn các trường phái điển hình với người nổi tiếng nhất là Ricardo sử dụng phương pháp diễn giải. Theo đó họ đã nêu ra các tiền đề mang tính giả thuyết, suy luận theo phương pháp diễn giải để từ đó rút ra các kết luận nhưng không tìm cách kiểm chứng chúng.