Kim ngạch xuất nhập khẩu là gì? Kim ngạch xuất nhập khẩu trong tiếng Anh là Export-import turnover. Thực trạng kim ngạch xuất nhập khẩu ở Việt Nam?
Xuất khẩu và nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định sức khỏe tổng thể của một nền kinh tế. Các quốc gia sử dụng dữ liệu họ thu được từ xuất khẩu và nhập khẩu để xác định xem họ đang thặng dư hay thâm hụt. Nếu bạn làm việc trong lĩnh vực hậu cần, tài chính hoặc một vị trí chính phủ liên quan đến việc quản lý các chuyến hàng giữa các nước ngoài, việc hiểu rõ cách thức hoạt động của xuất khẩu và nhập khẩu có thể mang lại lợi ích cho bạn. Trong bài viết này, chúng tôi định nghĩa xuất khẩu và nhập khẩu là gì, khám phá cách chúng có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế và liệt kê một số ngành nghề liên quan đến xuất khẩu và nhập khẩu.
Mục lục bài viết
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu là gì?
Xuất khẩu là hàng hoá và dịch vụ mà một quốc gia sản xuất trong nước và bán cho các doanh nghiệp hoặc khách hàng cư trú ở nước ngoài. Điều này dẫn đến dòng tiền đổ vào quốc gia đang bán hàng hóa và dịch vụ của họ. Các công ty có thể chọn xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài vì điều đó cho phép họ:
– Tham gia vào thương mại toàn cầu
– Tiếp cận thị trường mới
– Tăng doanh thu
Thông thường các công ty xuất khẩu hàng hóa hoặc dịch vụ trong những lĩnh vực mà họ có lợi thế cạnh tranh hơn các công ty khác vì sản phẩm hoặc dịch vụ của họ vượt trội hơn. Họ cũng có thể xuất khẩu những mặt hàng mà họ sản xuất tự nhiên mà các nước khác thiếu dựa trên khí hậu và địa lý. Ví dụ, Jamaica, Kenya và Columbia đều có khí hậu thích hợp cho việc trồng cà phê. Điều này giúp thúc đẩy khả năng xuất khẩu sản phẩm này của họ sang các nước ngoài không thể sản xuất cà phê trong khu vực của họ.
Nhập khẩu là hàng hóa và dịch vụ mà một doanh nghiệp hoặc khách hàng mua từ một quốc gia khác. Điều này dẫn đến dòng tiền chảy ra từ quốc gia đang mua hàng hóa và dịch vụ nước ngoài. Trong khi hầu hết các quốc gia cố gắng xuất khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn nhập khẩu để tăng thu nội địa, thì mức nhập khẩu cao có thể cho thấy một nền kinh tế đang phát triển. Điều này đặc biệt đúng nếu hàng nhập khẩu chủ yếu là tài sản sản xuất, chẳng hạn như thiết bị và máy móc, vì nước tiếp nhận có thể sử dụng những tài sản này để cải thiện năng suất của nền kinh tế của họ.
Ví dụ, một công ty sản xuất giấy ở Hoa Kỳ có thể chọn nhập khẩu một chiếc máy mới từ Ý vì nó tiết kiệm chi phí hơn so với việc tự chế tạo máy hoặc mua từ một nhà cung cấp trong nước. Một khi các nhà sản xuất lắp đặt máy, nó có thể tăng khả năng sản xuất các sản phẩm từ giấy của công ty sản xuất, do đó tăng doanh thu và khả năng xuất khẩu nhiều hàng hóa của họ hơn trong tương lai.
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong tiếng Anh là Export-import turnover.
Tổng giá trị xuất khẩu của các (hoặc một) hàng hoá xuất khẩu của quốc gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kì nhất định thường là quý hoặc năm, sau đó qui đổi đồng nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định được gọi chung là kim ngạch xuất khẩu và có tên tiếng anh là Export turnover
Bên cạnh đó thì tổng giá trị nhập khẩu của các (hoặc một) hàng hoá nhập khẩu vào quốc gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kì nhất định qui đổi đồng nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định lại được gọi là Kim ngạch nhập khẩu và nó có tên tiếng anh đó chính là Import turnover.
Từ hai khái niệm về kinh ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu vừa được nêu ra ở trên thì có thể hiểu một các đơn giản nhất về định nghĩa kim ngạch xuất nhập khẩu đó chính là tổng kim ngạch nhập khẩu cộng tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu và nhập khẩu rất quan trọng vì chúng cùng nhau tạo nên cán cân thương mại của một quốc gia, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế lành mạnh, cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng trưởng liên tục. Điều này thường đại diện cho một nền kinh tế bền vững và mạnh mẽ. Khi xuất khẩu và nhập khẩu mất cân đối, nó có thể gây ra xuất siêu hoặc nhập siêu.
Thặng dư thương mại xảy ra khi xuất khẩu của một quốc gia lớn hơn nhập khẩu của quốc gia đó. Điều này có nghĩa là có một dòng vốn nội tệ ròng từ thị trường nước ngoài. Thặng dư thương mại thường cho thấy một nền kinh tế khỏe mạnh. Thâm hụt thương mại xảy ra khi nhập khẩu của một quốc gia lớn hơn xuất khẩu của quốc gia đó. Điều này có nghĩa là có một dòng chảy ròng nội tệ ra thị trường nước ngoài. Thâm hụt thương mại có thể xảy ra khi một quốc gia thiếu khả năng sản xuất các sản phẩm của chính mình do:
– Thiếu kỹ năng
– Tài nguyên thấp
– Sở thích mua các sản phẩm từ một quốc gia khác có thể sản xuất chúng rẻ hơn
Để hiểu đầy đủ vai trò của xuất khẩu và nhập khẩu trong kinh tế, có thể hữu ích khi tìm hiểu cách chúng ảnh hưởng đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ giá hối đoái, mức độ lạm phát và lãi suất của một quốc gia.
2. Thực trạng kim ngạch xuất nhập khẩu ở Việt Nam:
Kim ngạch thương mại của Việt Nam trong chín tháng đầu năm nay đạt 483,17 tỷ đô la — tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước, theo Tổng cục Thống kê của đất nước. Riêng trong tháng 9, kim ngạch xuất nhập khẩu là 53,5 tỷ USD, giảm 2% so với con số của tháng trước nhưng tăng 4,2% so với cùng tháng năm ngoái.
Việt Nam đã vận chuyển 240,52 tỷ USD hàng hóa ra nước ngoài trong 9 tháng đầu năm 2021, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Khu vực trong nước đóng góp 62,72 tỷ USD và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (kể cả dầu thô) 177,8 tỷ USD, tăng lần lượt 8,5% và 22,8% hàng năm.
Trong thời gian chín tháng, 31 sản phẩm ghi nhận giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ đô la mỗi sản phẩm và chiếm 92,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, theo báo cáo của các phương tiện truyền thông Việt Nam. Xuất khẩu của nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến đạt 214 tỷ USD, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Tiếp theo là nông, lâm sản đạt 17,7 tỷ USD (tăng 17,6%) và thủy sản đạt 6,17 tỷ USD (tăng 2,4%).
Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chi 69,8 tỷ USD nhập khẩu các sản phẩm của Việt Nam, tăng 27,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Đứng thứ hai là Trung Quốc với 38,5 tỷ USD, tăng 18,3%. Theo sau là Liên minh châu Âu và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với 28,8 tỷ USD và 20,6 tỷ USD – tăng lần lượt 11,6% và 21,2% -.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 9 tháng đạt 242,65 tỷ USD, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hóa trị giá 83,72 tỷ USD, tăng 25%, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu chiếm phần lớn với 158,93 tỷ USD, tăng 33,6%.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đã tăng 1,42% trong chín tháng đầu năm nay so với con số cùng kỳ năm ngoái, duy trì sản xuất và kinh doanh trong bối cảnh xã hội ở nhiều khu vực chênh lệch nhau. Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy GDP giảm 6,17% hàng năm trong quý III, mức giảm mạnh nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu công bố số liệu GDP hàng quý vào năm 2000.Trong quý 3 năm nay, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%, dịch vụ giảm 9,28% và nông lâm thủy sản giảm 1,04%.
Tăng trưởng GDP 9 tháng là nhờ khu vực nông – lâm – thủy sản với tốc độ tăng 2,74%, đóng góp 23,52% vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,57%, đóng góp 98,53%. Trong khi đó, trong giai đoạn chín tháng, dịch vụ giảm 0,69%, kéo tăng trưởng cả nước giảm 22,05%. Nông-lâm-thủy sản tiếp tục giữ vai trò trụ cột của nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch. Cụ thể, nông nghiệp tăng 3,32%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm vào giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trị giá 25,76 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 24,8% tổng lượng hàng đi nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) vẫn chiếm phần lớn với 78,14 tỷ USD, tăng 34,4%. và chiếm 75,2% tổng số. Từ tháng 1 đến tháng 4, lĩnh vực công nghiệp nặng và khai khoáng báo cáo mức tăng trưởng cao nhất, tạo ra 57,58 tỷ USD doanh thu xuất khẩu, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đứng thứ hai là các ngành công nghiệp nhẹ và thủ công (27,5%) và nông, lâm nghiệp (8,8%). Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong bốn tháng qua với tổng kim ngạch là 30,3 tỷ USD, tăng 50,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Đứng thứ hai là Trung Quốc với kim ngạch xuất khẩu 16,8 tỷ USD, tăng 32,4%, tiếp theo là EU với 12,6 tỷ USD (tăng 18,1%). Trong khi đó, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với 33,1 tỷ USD, tăng 47,8% so với cùng kỳ năm ngoái, tiếp theo là Hàn Quốc (16,9 tỷ USD), ASEAN (14,1 tỷ USD) và Nhật Bản (7,2 tỷ USD). Tổng cục Thống kê cũng báo cáo thặng dư thương mại 1,29 tỷ USD và tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ gần 1,7 triệu tỷ đồng (73,9 tỷ USD) trong 4 tháng đầu năm, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Để hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh xuất khẩu, Bộ Công Thương sẽ tận dụng các hiệp định thương mại tự do để mở rộng thị trường xuất khẩu, gỡ bỏ rào cản để thâm nhập thị trường mới sâu hơn. Bên cạnh đó, Bộ sẽ ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại tại các chợ, nhằm hỗ trợ phục hồi nhanh sau đại dịch COVID-19. Ngoài ra, Bộ sẽ nỗ lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành như năng lượng, cơ khí chính xác, cũng như một số ngành cơ khí nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp hỗ trợ.