Trên thực tế chúng ta nhắc rất nhiều về thuật ngữ khối ngoại nhưng trong chúng ta có bao nhiêu người hiểu rõ về định nghĩa khối ngoại là như thế nào, và khối ngoại được đầu tư như thế nào. Khối ngoại là gì? Ảnh hưởng của nó đến chứng khoán nước ta?
Mục lục bài viết
1. Khối ngoại là gì?
Khối ngoại được biết đến là một khái niệm thuộc một phạm trù của chứng khoán và được dùng để chỉ các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là tên gọi quen thuộc với nhiều doanh nhân nhưng lại khá mới mẻ với những người chưa từng tham gia lĩnh vực này.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia giao dịch với thị trường chứng khoán nước ta sẽ được thống kê số liệu riêng theo quy định để giới hạn việc quản lý số cổ phiếu sở hữu. Từng có thời điểm, việc giao dịch với các khối ngoại ảnh hưởng đến tâm lý của nhiều nhà đầu từ mua bán trong nước ở một số mã và toàn thị trường.
Một số đặc điểm của nhà đầu tư khối ngoại:
+ Việc bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài chịu sự ảnh hưởng của các sự kiện kinh tế thế giới và có tính chu kỳ. Thời điểm từ tháng 9 – 10 hàng năm, khối ngoại có các hoạt động cơ cấu hoạt động quỹ đầu tư và sắp xếp lại nguồn vốn. Cũng tính theo chu kỳ thì sau tháng 10, dòng vốn nước ngoài vào thị trường sẽ ổn định trở lại và tùy theo diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô và các chính sách mới, dòng vốn nước ngoài đổ vào thị trường nhiều hoặc ít hơn. “Theo quan sát, khối ngoại thường có xu hướng mua ròng trong nửa đầu năm và quay ra bán ròng trong quý III, nửa đầu quý IV, trước khi quay trở lại mua ròng vào nửa sau quý IV.
+ Tính chu kỳ của suy thoái kinh tế, khi đó dòng tiền thường có xu hướng trú ẩn ở những kênh an toàn như vàng, trái phiếu
+ Đánh giá tính chất chung của thị trường vĩ mô, tức là Việt Nam ở trong mắt nhà đầu tư là mới nổi, ổn định, hay thất thường, từ đó dẫn đến những quyết định thay đổi từ dữ liệu vĩ mô.
+ Ảnh hưởng mạnh bởi chứng khoán Mỹ
Khối ngoại tiếng Anh là ” foreign block”.
2. Ảnh hưởng của nó đến chứng khoán nước ta?
Nhiều chuyên gia cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài rất giỏi, họ chỉ cần nhìn đồ thị là có thể đoán trước được tốc độ lên xuống của một số loại cổ phiếu. Sự tự tin của họ luôn bộc lộ rõ khi tham gia vào bất kì thị trường của đối tác theo đúng kỹ thuật. Khối ngoại có xu hướng chia thành 2 nhóm. Một bên là đầu tư dài hạn có danh mục rõ ràng và bên còn lại là đầu cơ trao đổi mua bán liên tục.
Điều đáng lo ngại là nhóm thứ 2 đang có xu hướng tăng cao nắm vững những định hướng của thị trường quốc tế. Đây cũng chính là thành phần tham gia những thủ thuật làm giá cũng như tung những tin đồn lũng đoạn. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có biện pháp cụ thể để dẹp bỏ các tổ chức đầu cơ này.
Câu hỏi được nhiều người đặt ra là trong tương lai, nếu nước ta rơi vào tình trạng chứng khoán khủng hoảng thì các nhà đầu tư sẽ ra sao? Việc để khối ngoại thống lĩnh thị trường liệu sẽ mang lại lợi ích hay rủi ro? Đây vẫn đang là bài toán khó giải đáp của các nhà đầu tư Việt Nam.
3. Cách đầu tư khối ngoại:
Bước 1: Xây dựng “Bộ lọc cổ phiếu” cho danh mục đầu tư. Sàng thứ nhất M-Q-V-E-F!
Trong bước này “Khối ngoại” sẽ lọc ra các cổ phiếu trong số gần 1000 mã niêm yết trên cả ba sản HNX, HSX và Upcom dựa trên các tiêu chí của riêng mình. (Cụ thể thông số này về tài chính và phi tài chính như thế nào thì vẫn không có số liệu cụ thể). Theo quan điểm của tác giả thì “khối ngoại” thích cách tiếp cận Top-down (phân tích từ vĩ mô, đến ngành, rồi đến doanh nghiệp) hơn là Bottom-up, nhìn chung đó là các bước cụ thể của:
+ Phân tích vĩ mô
+ Phân tích định lượng về KPIs (Lượng hóa kết quả hoạt động của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đề ra)
+ Áp dụng mô hình định giá
+ Tỷ lệ Free-loat: tỷ lệ khối lượng cổ phiếu được tự do chuyển nhượng trên TTCK đáp ứng bao nhiêu phần trăm. Vấn đề này rất quan trọng khi Free-loat quá lớn doanh nghiệp dễ bị pha loãng quyền sở hữu, và ngược lại Free-loat quá nhỏ, “khối ngoại” cũng khó tham gia vào.
+ Cuối cùng loại ra những cổ phiếu không thỏa mãn bộ lọc này
Có vẻ khối ngoại không quan tâm đến vấn đề “vốn hóa” trong lớp sàng này
Bước 2: Phân tích ESG. Lựa chọn và tiến hành định giá
“Khối ngoại” tiếp tục phân tích các mã cổ phiếu đã qua cái sàng thứ nhất và tiếp tục cho vào cái sàng thứ hai đó là ESG (Environmental, Social and corporate Governance) trong đó tập trung vào những thông tin chi tiết về chất lượng công tác quản lý, văn hóa, các yếu tố rủi ro và các đặc điểm khác của doanh nghiệp. ESG Managers Portfolios, một công ty quản lý các quỹ đầu tư toàn cầu đã đưa ra các dấu hiệu nhận biết một doanh nghiệp tốt là đáp ứng được các tiêu chí ESG ở mức cao như sau:
+ Là doanh nghiệp dẫn đầu trong lĩnh vực hoạt động;
+ Được quản lý tốt và có những dự định tốt hướng tới tương lai;
+ Dự đoán và giảm thiểu rủi ro tốt;
+ Đáp ứng những tiêu chuẩn tích cực về trách nhiệm của doanh nghiệp;
+ Trọng tâm phát triển công ty được tập trung trong dài hạn.
Những đặc điểm của một doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí ESG như trên giúp cho việc phân tích các chỉ số hoạt động sản xuất kinh doanh, đánh giá giá trị của một doanh nghiệp được thuận lợi hơn để từ đó có quyết định đúng đắn với giá cổ phiếu, ra quyết định đầu tư góp vốn tốt hơn. Các yếu tố ESG được phân chia thành 3 nhóm yếu tố chính là E (Môi trường), S (Xã hội) và G (Quản trị). Mỗi nhóm yếu tố chính tiếp tục được phân loại thành nhiều yếu tố nhỏ hơn và được chia thành hai phần đánh giá là: đánh giá hoạt động và đánh giá tác động tiềm tàng
+ Trong phần này chúng ta sẽ chú ý đến các sản phẩm thế mạnh của doanh nghiệp và cách thức doanh nghiệp duy trì và phát huy thế mạnh này bằng cách nào. Sản phẩm thế mạnh đó phải có sức cạnh trong trong ngành của doanh nghiệp, đặc biệt là thị trường ngách và cách mà các doanh nghiệp này thực hiện điều này như thế nào để biến các sản phẩm của mình nhằm đưa doanh nghiệp mình thành doanh nghiệp dẫn đầu ngành và duy trì ở vị trí đó. Hãy đơn cử ví dụ khi nhắc đến thị trường chăn-ga-gối đệm, chúng ta lại phải nhớ đến EVE hay nhắc đến sản phẩm túi nhựa tự phân hủy thân thiện với môi trường thì đó phải là AAA.
+ Tiếp theo là đánh giá về tài chính của doanh nghiệp đó là đánh giá về sức mạnh tài chính và đánh giá/dự báo tăng trưởng EPS
Bước 3: Đề xuất và quyết định. Đây là điểm khác biệt lớn nhất của bên “buy-side” so với “sell-side”
“Khối ngoại” đi rất sâu vào doanh nghiệp, đây thực sự là điểm mấu chốt làm nên sự khác biệt giữa quỹ và công ty chứng khoán. Một quỹ thường có thời gian đầu tư vào doanh nghiệp 10 năm rồi mới thoái vốn. Điều này, làm cho quỹ quá hiểu rõ doanh nghiệp mạnh, yếu cái gì, doanh nghiệp cần gì và thiếu gì? CTCK thua hoàn toàn trong lĩnh vực này do rất nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về vốn và về nhân lực.
Vậy “khối ngoại” đi vào doanh nghiệp, nó làm cái gì. “Khối ngoại” sẽ bắt đầu từ việc thay đổi hệ thống tư duy của doanh nghiệp. Cụ thể, nó sẽ đánh giá các cơ hội đầu tư tiềm năng trong doanh nghiệp. Bắt đầu đi từ ban quản trị xuống, đó là cử người vào Hội đồng quản trị (BOD), sau đó có thể cho thêm người vào Ban điều hành. “Khối ngoại” sẽ mang theo tư duy, công nghệ và kỹ thuật quản trị vào Hội đồng quản trị (BOD) của doanh nghiệp. Trong đó nổi bật vai trò của Due-Diligence gồm có tập trung chủ yếu vào việc giúp doanh nghiệp tháo gỡ ba vấn đề chính đó là pháp lý (legal), thương mại (commercial) & tài chính (financial)… của doanh nghiệp.
Bước 4: Cơ cấu danh mục đầu tư
“Khối ngoại” sẽ phải trả lời cho câu hỏi “Tỷ trọng vào từng tài sản/cổ phiếu trong danh mục bao nhiêu là hợp lý” và đúng như dự đoán thông số chi tiết như thế nào không được công bố. Để xác định được điều này, căn cứ vào sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế mà đầu tư và những ngành nào, thị trường đang đà tăng hay giảm điểm đề phân bổ tỷ trọng vào những loại cổ phiếu nào. Và đây cũng chính là câu hỏi thứ hai mà bài viết đề cập đến.
Bước 5: Tiến hành đánh giá và tái cân bằng danh mục theo từng thời kỳ
Liên tục cập nhật về tình hình nền kinh tế vĩ mô về lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất…
Bước 6: Thoái vốn
Điểm thoái vốn của “khối ngoại” cũng tương tự như điểm “chốt lời” của các nhà đầu tư “khối nội”. Chọn cổ phiếu/tài sản để mua rồi chọn điểm mua đã là một công đoạn gian nan và điểm bán và tài sản/cổ phiếu bán lại càng khó khăn hơn. Ngay cả nhà đầu tư nội cũng gặp khó khăn trong khâu này trong đó yếu tố tâm lý đóng vai trò khá quan trọng. Tuy nhiên, thoái vốn là một quá trình và thường diễn ra sau 10 năm, thoái vốn khá phức tạp và nhiều công đoạn.