Trẻ em là những đối tượng cần được bảo vệ bởi trẻ em chưa phát triển đầy đủ về nhận thức và tinh thần, tâm lý và hân cách đang trong giai đoạn phát triển. Ở mỗi quốc gia quy định về trẻ em có những điểm khác nhau. Cùng bài viết tìm hiểu khái niệm về trẻ em và quyền được bảo vệ của trẻ em.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm trẻ em là gì?
Tùy vào góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể, khái niệm trẻ em được hiểu ở nhiều cách khác nhau.
Theo triết học xem trẻ em là một “khâu” tất yếu trong mối quan hệ biện chứng với tiến trình phát triển của xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Sự phát triển của xã hội, tương lai của một quốc gia, dân tộc tùy thuộc và việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Theo đó, tâm lý học phân chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển và tiếp thu nhận thức khác nhau: Tuổi sơ sinh, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thành niên mới lớn.
Xã hội học lại xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người trường thành. Trẻ em là người chưa đạt đến sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần để được coi là người lớn. Do đó, trẻ em được xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển một cách toàn diện.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi. Trên cơ sở độ tuổi, pháp luật xác định năng lực hành vi dành cho chủ thể đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, một cá nhân được xem xét là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào ngày tháng năm sinh của người đó tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại xác định độ tuổi của trẻ em khác nhau do phụ thuộc và vào điều kiện văn hóa, xã hội, kinh tế của mỗi nước. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 xác định “Trẻ em là người dưới 18 tuổi”. Tương tự, hầu hết các quốc gia Châu Âu, Bắc Mỹ đều xác định độ tuổi dưới 18 tuổi là trẻ em .
Hiện nay trên thế giới chỉ còn 11 nước, trong đó có 4 nước ở khu vực châu Á vẫn quy định về tuổi pháp lý của trẻ em thấp hơn 18 tuổi (Nepal, Bắc Triều Tiên quy định 17 tuổi, Iran quy định 9 tuổi đối với nữ và 15 tuổi đối với nam). Các quốc gia trên thế giới và trong khu vực đều điều chỉnh tuổi quy định pháp lý về trẻ em ở tuổi 18. Ở châu Á, các quốc gia như Bangladesh, Lào, Campuchia,... đều quy định tuổi trẻ em cao hơn Việt Nam. Quốc gia châu Á gần đây nhất điều chỉnh quy định pháp luật quốc gia về tuổi trẻ em tương đồng với quy định pháp luật quốc tế là Bangladesh .
Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng tương đối thống nhất và được đề cập trong nhiều văn kiện quốc tế, như Tuyên ngôn Giơ–ne–vơ về quyền trẻ em năm 1924 cho đến Công ước của Liên hợp quốc tế về quyền trẻ em (CRC) năm 1989. Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 và 2 nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong các văn kiện trên khái niệm “trẻ em” đều được xác định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em CRC (ngày 28/02/1990). Quyền trẻ em được quy định trong Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992, và năm 2013. Quyền trẻ em cũng được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật, quy định cụ thể và tập trung nhất vào Luật trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018.
Ở Việt Nam, khái niệm trẻ em chính thức được đề cập trong Pháp lệnh Bảo vệ chăm sóc sức khỏe gia đình trẻ em năm 1979: “Trẻ em nói trong Pháp lệnh này gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi” (Điều 1). Sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC), Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em năm 1991, trong đó quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. So với Pháp lệnh năm 1979, độ tuổi của trẻ em đã được nâng từ 15 lên 16 tuổi và không xác định trẻ em chỉ được tính từ khi mới sinh ra mà được xác định sớm hơn. Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm 2004 tiếp tục xác định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Theo quy định này, những trẻ em dưới 16 tuổi là công dân Việt Nam mới được hưởng đầy đủ các quyền cả bổn phận của trẻ em.
Luật trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018 quy định: “ Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Qua khái niệm này, chúng ta thấy có sự thay đổi so với trước đây, đó là tất cả trẻ em dưới 16 tuổi, không phân biệt là công dân Việt Nam hay người có quốc tịch, người không có quốc tịch ở lãnh thổ Việt Nam đều được bảo vệ chăm sóc và giáo dục như nhau. Qua quy định về độ tuổi trẻ em cho thấy, pháp luật Việt Nam ngày càng hài hòa hơn với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có nhiều văn bản đề cập tới trẻ em thì thường dùng từ “người” hoặc “người chưa thành niên” và xác định độ tuổi rất khác nhau. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi (Điều 18); Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định người từ đủ 14 tuổi đã phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12); Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi (Điều 143); Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định tuổi chịu trách nhiệm hành chính là người từ đủ 14 tuổi trở lên (Điều 5)... . Những quy định này cho thấy, độ tuổi của người chưa thành niên theo quy định của pháp luật Việt Nam trùng với quy định về độ tuổi của trẻ em theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC). Trẻ em theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em CRC và người thành niên theo pháp luật Việt Nam đều là những người chưa trưởng thành, còn non nớt cả về thể chất và trí tuệ, cần nhận được bảo vệ đặc biệt. Vì vậy, trong một chừng mực nhất định, thuật ngữ người chưa thành niên và thuật ngữ trẻ em có cùng một ý nghĩa dùng để chỉ những người chưa trưởng thành. Nhưng nếu xét dưới góc độ tuổi thì khái niệm người chưa thành niên rộng hơn khái niệm trẻ em, tức là người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong công tác bảo vệ trẻ em, khắc phục dần những khoảng trống” trong thực tiễn áp dụng pháp luật để phù hợp với pháp luật quốc tế, Quốc hội đã thông qua Luật Thanh niên 2020, trong đó quy định nhà nước thực hiện điều ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phù hợp với điều kiện Việt Nam. Dù quy định như vậy nhưng chúng ta thấy rằng, ở lứa tuổi này tâm lý đang trong thời kỳ phát triển nhanh chóng và chưa ổn định, dễ bị tổn thương, dễ thay đổi, dễ uốn nắn và còn phụ thuộc; các em ham khám phá, học hỏi, ham hoạt động và ấp ủ đầy ước mơ, hoài bão nhưng cũng rất hay tự ái, có tính hiếu kỳ, háo thắng, thiếu tự tin, thiếu kiên nhẫn và thiếu trải nghiệm, kinh nghiệm thực tế, nhất là ở giai đoạn từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vì vậy, trẻ em vẫn rất cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt hơn, chu đáo hơn để định hướng các em phát triển bình thường.
Tuy nhiên, trong luận văn này, thuật ngữ “trẻ em” được áp dụng cho tất cả những người dưới 16 tuổi theo quy định Luật Trẻ em.
2. Quyền bảo vệ của trẻ em là gì?
Khái niệm “quyền” hiểu theo nghĩa tiếng Việt, là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành... khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Về khái niệm khoa học, “Quyền” là nguyên tắc đạo đức xác định và thừa nhận sự tự do hành động của con người trong một xã hội nhất định. Khái niệm “Quyền” chỉ liên quan đến hành động – mà cụ thể là liên quan đến tự do hành động, nghĩa là thoát khỏi những cưỡng chế về mặt thể xác, thoát khỏi tình trạng bị ép buộc hay bị can thiệp bởi những người khác. Đối với mỗi cá nhân, quyền là sự thừa nhận về mặt đạo đức đổi một sự chọn lựa tích cực – được tự do hành động theo lý trí, vì các mục tiêu riêng, do sự lựa chọn riêng tự nguyện, không bị cưỡng ép. Đối với những người xung quanh, các quyền của cá nhân đó không áp đặt nghĩa vụ nào lên những người xung quanh ngoại trừ một quyền phủ quyết, họ không được vi phạm các quyền của cá nhân đó.
Quyền là một khái niệm được dùng để miêu tả một nguyên tắc có liên quan đến những lợi ích cơ bản mà con người được hưởng, không phân biệt đặc điểm hay hoàn cảnh cá nhân đó. Việc công nhận quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân đồng nghĩa với trách nhiệm của những người khác trong việc hành động để thực hiện của một cá nhân hay một nhóm cá nhân.
Trước đây, quan niệm cho rằng, trẻ em do còn non nớt về thể chất và tinh thần, nên quyền trẻ em bao gồm những biện pháp nhằm che chở, bảo vệ khỏi mọi sự xâm hại, trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc một cách đặc biệt. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không xuất phát từ góc độ “quyền trẻ em” mà việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em như một sự bao dung, che chở, sự thương hại, ban ơn.
Hiện nay, quan điểm về quyền của trẻ em mang tính tiến bộ và tích cực hơn. Trẻ em được nhìn nhận là một chủ thể trong các mối quan hệ xã hội, mỗi trẻ em là một cá thể được xã hội công nhận, do đó trẻ em cũng có quyền cơ bản của con người, các quyền của trẻ em được pháp luật tôn trọng và bảo vệ một cách đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, trẻ em được hưởng một số quyền đặc thù mà chỉ trẻ em mới có như quyền được khai sinh, được áp dụng các biện pháp xử lý nhẹ hơn khi vi phạm hành chính hay được áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn người đã trưởng thành khi có cùng một hành vi phạm tội. Trẻ em cũng có nhiều quyền ưu tiên hơn người lớn như quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được chăm sóc, được học tập, được bảo vệ, được tạo điều kiện để vui chơi...
Như vậy, quyền trẻ em chính là quyền con người được cụ thể hóa cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống trẻ em. Đó là những đặc quyền tự nhiên của trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện. Quyền trẻ em chính là biện pháp nhằm đảm bảo cho trẻ em không những được hưởng các quyền mà còn trở thành chủ thể của chính các quyền đó.
3. Nhóm quyền cơ bản của trẻ em:
Theo các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em thì, quyền trẻ em là quyền con người của trẻ em, bao gồm bốn nhóm quyền cơ bản là nhóm quyền sống còn, nhóm quyền phát triển, nhóm quyền bảo vệ và nhóm quyền tham gia... Cụ thể:
Nhóm quyền sống còn: Quyền sống còn là quyền cơ bản của mỗi cá nhân, tiền để cho việc bảo vệ tất cả các quyền khác của con người. Bảo vệ quyền này của trẻ em cần dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Các quyền này cần phải được thực hiện ngay không chậm trễ vì trẻ rất dễ bị tổn thương. Khi những nguy cơ đe dọa quyền sống còn của trẻ như: gây ra những tai nạn thương tích, những tổn thương do người lớn đem lại, thiếu sự chăm sóc yêu thương và hỗ trợ của gia đình, bị phân biệt đối xử. Những nguy cơ đe dọa tới sự sống còn của trẻ em là rất nhiều và có thể xảy ra bất cứ nơi nào, cộng đồng và quốc gia nào, kể cả ngay tại gia đình. Tất cả chúng ta phải có trách nhiệm đảm bảo quyền được sống ở mức cao nhất có thể được.
Nhóm quyền bảo vệ: Quyền bảo vệ là bảo vệ trẻ em tránh mọi sự phân biệt đối xử, thoát khỏi sự bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng, xâm hại về thể xác và tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ, bảo vệ trước các tệ nạn xã hội như buôn bán trẻ em, nghiện ma túy, lạm dụng khi vi phạm pháp luật hình sự, không bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, các em phải được bảo vệ trong tình trạng khẩn cấp, khủng hoảng. Nghiêm cấm lạm dụng trẻ em, bất kỳ một hành vi hoặc yếu tố tình huống có chủ ý của cá nhân, tổ chức hay của cộng đồng như xâm phạm đến thể chất, tình cảm, nhân cách, lạm dụng tình dục, ngược đãi, xao nhãng, bỏ rơi, sử dụng quá mức sức lao động hoặc khai thác thương mại, tước đoạt quyền và sự tự do của trẻ em, gây nguy hại đến sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội của trẻ. Khi trẻ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng khẩn cấp như tình trạng rối loạn, thiếu hụt, mất thăng bằng nghiêm trọng do những yếu tố bên ngoài tác động có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội của trẻ em.
Nhóm quyền phát triển: Bao gồm mọi hình thức giáo dục và quyền được có mức sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ. Quyền được chăm sóc sức khỏe, được học tập và phát triển năng khiếu.
Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch.
Nhóm quyền tham gia: Bao gồm quyền được bày tỏ ý kiến trong mọi vấn đề có liên quan tới bản thân, quyền được lắng nghe và được kết giao hội họp. Quyền được tiếp cận thông tin bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Việt Nam là một trong số các quốc gia chú trọng đến bảo vệ quyền trẻ em. Bởi Việt Nam là quốc gia đầu tiên tại Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quyền trẻ em CRC. Các quyền trẻ em được Việt Nam ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện và cụ thể hóa thông qua nhiều quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và được cụ thể hóa bằng nhiều chương trình hành động, bao gồm các quyền: Quyền có quốc tịch và được khai sinh, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được học tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền có tài sản, quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Mỗi nhóm quyền lại được cụ thể hóa tại nhiều chế định pháp luật riêng nhằm cụ thể hóa các quyền đó thông qua việc quy định quyền của trẻ hoặc các hành vi cấm thực hiện để đảm bảo quyền của trẻ em. Ví dụ, đối với quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em như ngược đãi, đánh đập, bạo hành về thể chất và tinh thần trẻ; cấm sử dụng lao động trẻ em làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.... So sánh giữa cách hiểu về quyền trẻ em ở Việt Nam là tương đối phù hợp và hài hòa với quyền trẻ em được quy định tại các công ước quốc tế. Đánh giá vấn đề này, tổ chức UNICEF tại Việt Nam nhận định: “Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tạo khuôn khổ pháp lý thực hiện các quyền trẻ em, luật pháp và chính sách liên quan của Việt Nam ngày càng tương thích với các chuẩn mực quốc tế...” .
Luật trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018 đã cụ thể hóa các nhóm quyền của trẻ em trong Công ước thành 25 điều luật về quyền của trẻ em trong đó có 7 điều luật quy định về quyền được bảo vệ của trẻ em (từ Điều 25 đến Điều 31) cụ thể các quyền bảo vệ của trẻ em như: không bị xâm hại tình dục, không bị bóc lột sức lao động; không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc; không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; bảo vệ khỏi chất ma túy; trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang.
Trong Luật Trẻ em và các tài liệu chuyên môn thường sử dụng thuật ngữ quyền được bảo vệ của trẻ em là những quy định trẻ em phải được bảo vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao động, bóc lột và xâm hại tình dục, lạm dụng ma túy, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc, buôn bán. Khi đó, trẻ em là chủ thể bị động nhận được sự bảo vệ của các chủ thể khác nhưng trong Luận văn này, tác giả mong muốn nhấn mạnh trẻ em là vừa là chủ thể nhận được sự bảo vệ từ các chủ thể khác đồng thời trẻ em cũng là chủ thể của các quyền bảo vệ trẻ em, các em có thể tự mình lên tiếng, bảo vệ của quyền lợi chính đáng của mình khi bị các chủ thể khác vi phạm. Vì vậy, thuật ngữ “quyền được bảo vệ của trẻ em” có nội hàm tương đồng thuật ngữ “quyền bảo vệ của trẻ em”. Từ đó nên tác giả sử dụng thuật ngữ “quyền bảo vệ của trẻ em” thay thuật ngữ “quyền được bảo vệ của trẻ em”.
Vì vậy, quyền bảo vệ của trẻ em là những quy định pháp luật ghi nhận các biện pháp nhằm đảm bảo cho trẻ em được sống an toàn, lành mạnh khỏi bị gây tổn hại về thể chất và tinh thần.