Tính đến thời điểm hiện tại, ngành công nghiệp dệt may đang là một trong những ngành nghề phát triển ở Việt Nam và thu hút một lượng lớn những nhà đầu tư nước ngoài cũng như từ ngành nghề này mà đã giải quyết được vấn đề việc làm cho hàng triệu người lao động. Với một ngành công nghiệp có tiềm năng như vậy, hiệp hội dệt may Việt Nam đã ra đời.
Mục lục bài viết
1. Hội dệt may Việt Nam là gì?
– Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vietnam Textile and Apparel Association– VITAS) là một hiệp hội thành viên, độc lập và phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực dệt may tại Việt Nam. Hiệp hội được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng của các tổ chức, cá nhân trong ngành dệt may.
– VITAS phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp và chính phủ về chiến lược và chương trình phát triển cho ngành dệt may. VITAS phối hợp hiệu quả với các Bộ và các đối tác phát triển để huy động vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thị trường xuất khẩu, hỗ trợ giải quyết các rào cản thương mại, tạo điều kiện cho các chương trình xúc tiến thương mại quốc tế góp phần tích cực xây dựng thương hiệu dệt may Việt Nam “Chất lượng, trách nhiệm xã hội và thân thiện với môi trường” trên toàn cầu thị trường.
– Trong gần 20 năm hoạt động, VITAS đã thu hút gần 800 thành viên là các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đối tác trong và ngoài nước. VITAS có 07 chi nhánh địa phương trên mọi miền đất nước.
– Ngành dệt may của Việt Nam bao gồm 3 phân ngành: phân ngành thượng nguồn (sản xuất sợi), phân ngành trung bình (sản xuất và nhuộm vải) và phân ngành hạ cấp (sản xuất hàng may mặc). Ngành dệt may sử dụng các nguyên liệu chính là bông, sợi tổng hợp, len, sợi và tơ tằm. Ban đầu, các phân ngành sản xuất sợi hoặc vải không phải là sản phẩm chất lượng và đây là các sản phẩm dệt chủ yếu được sử dụng cho tiêu dùng trong nước. Mặc dù Việt Nam có tiềm năng trồng và sản xuất bông rất lớn nhưng nguồn trong nước chỉ cung cấp chưa đến 2% tổng lượng bông yêu cầu và ngành dệt may phải nhập khẩu bông rất lớn từ bên ngoài.
Các nguồn tin không chính thức cho biết ngành vải trong nước cung cấp khoảng 20% tổng nhu cầu đầu vào của ngành may mặc, 80% còn lại được nhập khẩu từ nước ngoài cho các ngành may mặc định hướng xuất khẩu. Ở giai đoạn đầu, sản xuất hàng may mặc định hướng xuất khẩu ở Việt Nam chủ yếu dựa trên cơ sở CMT (cắt, may và trang trí), thu về giá trị gia tăng rất thấp như Campuchia. Dần dần, với việc thành lập các ngành công nghiệp mới, đất nước đã tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn từ ngành dệt may.
2. Lịch sử hình thành, nhiệm vụ và danh sách thành viên:
2.1. Lịch sử hình thành:
– Hiệp hội Dệt May Việt Nam được thành lập ngày 16/7/1999. Điều lệ Hiệp hội Dệt May sửa đổi hiện hành được Bộ Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 92 /QĐ-BNV ngày 28 tháng 01 năm 2011.
– Hiệp hội dệt may Việt Nam được thành lập với mục đích nhằm thúc đẩy, hợp tác cùng phát triển cũng như đưa ngành dệt may trở thành một trong những ngành nghề chủ đạo. Ngành dệt may Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong suốt 15 năm. Hiện nay, ngành may mặc là ngành đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngành không ngừng đầu tư, thay đổi thiết bị, công nghệ để đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh thế giới. Tại Việt Nam, ngành may mặc đang nằm phân tán không giống như Campuchia. Khoảng 58% doanh nghiệp tập trung ở Đông Bắc Bộ, 27% ở Đồng bằng sông Hồng, 7% ở Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, 4% ở Đồng bằng sông Cửu Long và 4% còn lại ở Trung du Bắc Bộ và Vùng núi và cao nguyên.
– Ngành công nghiệp dệt và may mặc ngày nay là kết quả của sáng kiến đầu tư được thực hiện trong suốt một thập kỷ qua. Từ năm 1997 đến năm 2006, Việt Nam đã đầu tư rất lớn để hướng tới công nghệ sản xuất hiện đại hơn. Tính đến nay, Dệt may Việt Nam có khoảng 2.500 doanh nghiệp với gần 2 triệu lao động, trong đó lao động trực tiếp 1,1 triệu người, còn lại là lao động gián tiếp. Các vấn đề liên quan đến lao động phổ biến ở Việt Nam ít hơn nhiều và tất cả người lao động chỉ thuộc một tổ chức Công đoàn. Tuy nhiên, ngành may mặc đang ngày càng phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động do mức độ dịch chuyển lao động sang các ngành khác ngày càng tăng để có mức lương và mức lương cao hơn. Hiện trạng ngành may mặc ở Việt Nam có thể được mô tả như sau:
+ Khoảng 2.500 nhà máy may mặc định hướng xuất khẩu đang hoạt động và đăng ký với VITAS, trong đó 77% thuộc sở hữu của công ty cổ phần đối tác nhà nước, 18,5% là 100% vốn FDI, 0,5% vốn nhà nước và 5% hợp tác xã địa phương.
+ 2 triệu lao động (80-85% là nữ) được sử dụng, trong đó 1,1 triệu là lao động trực tiếp và số còn lại là lao động gián tiếp.
+ Mức lương tối thiểu cho một lao động bình thường là khoảng 50-60 đô la Mỹ mỗi tháng và lương cho một công nhân lành nghề từ 140-200 đô la Mỹ mỗi tháng, đôi khi còn hơn
+ Các mặt hàng phổ biến nhất Áo sơ mi, Quần, Áo ba lỗ, Áo khoác, Áo phông, Áo thun Polo, Đồ lót trẻ em, Đồ lót và Đồ bơi, quần áo đi làm, v.v.
+ Thị trường chính là Mỹ, EU, Nhật Bản và Nga
– Hiện nay, Văn phòng Hiệp hội đặt tại địa chỉ Lầu 2, số 32 Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
– Hiệp hội Dệt May Việt Nam đã gia nhập các tổ chức quốc tế:
+ Hiệp hội các nước xuất khẩu Dệt May Thế giới (ICTB )
+ Liên đoàn May Mặc Thế giới (IAF – International Apparel Federation)
+ Liên đoàn May Mặc Châu Á (AAF – ASIAN Apparel Federation)
+ Liên đoàn Dệt May Đông Nam Á (AFTEX – ASEAN Federation Textile)
+ Liên đoàn Thời trang Châu Á (AFF – ASIAN Fashion Federation)
2.2. Nhiệm vụ chính của hội dệt may Việt Nam:
Cũng như những hiệp hội khác, hội dệt may Việt Nam ra đời cũng mang trong mình những nhiệm vụ chính nhằm thúc đẩy, phát triển ngành dệt may, theo đó, nhiệm vụ chính của hội dệt may Việt Nam là nắm bắt, tạo môi trường, tham gia các hoạt động về tổ chức dệt may và các tổ chức khác có liên quan.
– Thứ nhất, hội dệt may Việt Nam có nhiệm vụ nắm bắt tình hình hoạt động của ngành dệt may trong và ngoài nước, xem xét về cơ hội, tiềm năng phát triển của ngành này cũng như đề ra được những phương án để tư vấn, tạo môi trường thuận lợi để phát triển hết khả năng, khai thác được tiềm năng của nguồn nhân lực sau khi đã đào tạo.
– Thứ hai, hội dệt may Việt Nam là nơi để tạo môi trường liên kết, hợp tác giữa các hội viên về sản xuất kinh doanh, nhằm phát huy thế mạnh vì lợi ích của từng hội viên cũng như toàn ngành, đây cũng là nơi làm đầu mối giải quyết các tranh chấp giữa các hội viên, khuyến khích các hội viên tham gia các hoạt động của hội cũng như có nhiệm vụ trong việc tư vấn và kiến nghị với Chính phủ trong việc ban hành chính sách, chế độ liên quan đến ngành dệt may.
– Thứ ba, hội dệt may Việt Nam có nhiệm vụ trong việc phối hợp trong phạm vi Hiệp hội về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, thông tin kinh tế, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm và tham gia các hoạt động với các tổ chức dệt may quốc tế và khu vực để đưa ngành dệt may Việt Nam hội nhập, theo qui định pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
– Trong số các nguyên liệu thô của ngành dệt may, ở Việt Nam, phổ biến nhất là vải cotton bên cạnh polyester và lụa. Chất lượng vải của Việt Nam, đặc biệt là polyester và lụa thấp hơn so với các nước cạnh tranh trong khu vực Châu Á như Trung Quốc, Đài Loan hay Nhật Bản. Tuy nhiên, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã đầu tư rất lớn vào sản xuất sợi và vải và đầu tư vẫn tiếp tục. Năng lực sản xuất bông và sợi tổng hợp hiện nay của Việt Nam lần lượt là hơn 7.000 tấn và 180.000 tấn. Trong tổng vốn đầu tư vào sợi bông và tơ tằm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lắp đặt công suất hàng năm cho sợi PES và tơ tằm PES lần lượt là 167.400 tấn và 133.500 tấn. Nguyên liệu thô của vải dệt sơ cấp bao gồm:
+ Bông: Cotton là loại vải chính có ở Việt Nam. Do sự phát triển nhanh chóng của người Việt, trong lĩnh vực may mặc, nhu cầu về bông tăng mạnh. Tuy nhiên, diện tích trồng bông của Việt Nam
Năm 2008 đã giảm xuống còn 6.000 ha và chỉ sản xuất được 2.600 tấn. Tuy nhiên, nhu cầu của ngành may mặc là khoảng 160.000 tấn bông và sản lượng nội địa hiện tại chỉ có thể đáp ứng 1,63% tổng nhu cầu thông qua việc sử dụng bông nhập khẩu từ Mỹ, Ấn Độ, Uzbekistan và các nước châu Phi (Nam Phi, Mali, Burkina Fuso, Benin, Ivory Chi phí, Cameroon, Mozambique). Chính phủ Việt Nam đã chủ động mở rộng sản xuất bông tại địa phương khoảng 80.000 tấn bằng cách phân bổ thêm 150.000ha bông trong chương trình phát triển bông 2001-2010. Nguyên nhân chính của việc diện tích bông tiếp tục bị thu hẹp là hiệu quả kinh tế thấp2 và nông dân thích trồng các loại cây ngắn ngày có giá trị kinh tế cao hơn như ngô và đậu tương. VINATEX đã nỗ lực để tăng sản lượng bông địa phương thông qua các đồn điền trồng bông ở các tỉnh khác nhau.
+ Sợi Polyester / Sợi tổng hợp: Tại Việt Nam, xu hướng sản xuất polyester ngày càng tăng và do đó, nhiều khoản đầu tư mới đã được thực hiện. Trong năm 2008, sợi polyester sản xuất trong nước đáp ứng khoảng 4% tổng nhu cầu. Gần đây, VINATEX và PetroVietnam3 đã cùng đầu tư 125 triệu USD vào sản xuất xơ polyester từ các sản phẩm hóa dầu, dự kiến sẽ đáp ứng 20% -50% nhu cầu xơ polyester trong nước. Nhiều đơn vị sản xuất sợi polyester dự kiến sẽ được thành lập.
+ Tơ tằm: Nghề sản xuất tơ lụa của Việt Nam có lịch sử lâu đời, trong đó lụa Việt Nam được sản xuất trong nước dành cho các gia đình hoàng tộc hoặc các tầng lớp có địa vị. Tỉnh Hà Tây của Việt Nam, được biết đến là trung tâm sản xuất tơ lụa lớn nhất và lâu đời nhất. Làng nổi tiếng nhất và lớn nhất vẫn là làng Vạn Phúc, cách trung tâm Hà Nội 10 km về phía nam. Làng Vạn Phúc hiện có 730 hộ với 1.600 nhân khẩu mưu sinh bằng nghề dệt lụa. Làng nghề sản xuất và xuất khẩu nhiều loại sản phẩm lụa. Trong năm 2008, doanh số bán hàng tơ lụa
– Ngành công nghiệp dệt may sơ cấp ở Việt Nam: Tại Việt Nam, sở hữu ngành dệt may được chia thành ba nhóm nhà đầu tư; Doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Ngành dệt may đã thu hút được một lượng đáng kể vốn đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất trong ngành dệt may Việt Nam là Đài Loan, tiếp theo là Hàn Quốc và Hồng Kông. Tuy nhiên, so với tổng vốn FDI vào các lĩnh vực khác của Việt Nam, thì ngành dệt may chỉ chiếm một phần rất nhỏ.