Cả dòng tiền vào và ra từ các chủ nợ và các nhà đầu tư đều được coi là các hoạt động tài trợ. Bất cứ điều gì liên quan đến chuyển động của tiền đều là một hoạt động tài chính. Cùng bài viết tìm hiểu về hoạt động tài chính là gì? Nguyên tắc thực hiện hoạt động tài chính?
Mục lục bài viết
1. Hoạt động tài chính là gì?
Hoạt động tài chính là các giao dịch khác nhau liên quan đến việc di chuyển tiền giữa công ty và các nhà đầu tư, chủ sở hữu hoặc chủ nợ để đạt được mục tiêu kinh tế và tăng trưởng dài hạn, đồng thời ảnh hưởng đến vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả hiện có trên bảng cân đối kế toán; Các hoạt động này có thể được phân tích thông qua dòng tiền từ phần tài chính trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ của công ty.
Nói một cách dễ hiểu, Hoạt động tài chính đề cập đến hành động huy động tiền hoặc trả lại số tiền huy động được này của những người quảng bá hoặc chủ sở hữu của công ty để phát triển và đầu tư vào các tài sản như mua máy móc mới, mở văn phòng mới, thuê thêm lực lượng lao động, v.v. Các giao dịch này thường là một phần của chiến lược tăng trưởng dài hạn và do đó ảnh hưởng đến tài sản và nợ dài hạn của công ty.
Các hoạt động này liên quan đến việc luân chuyển tiền và các khoản tương đương tiền giữa công ty và các nguồn tài chính của công ty, tức là các nhà đầu tư và chủ nợ đối với các khoản nợ phi kinh doanh như các khoản vay dài hạn, trái phiếu phải trả, v.v. Dòng tiền từ các hoạt động tài chính là các khoản tiền mà doanh nghiệp sử dụng hoặc chi trả để tài trợ cho các hoạt động của mình. Đây là một trong ba phần trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ của công ty, hai phần còn lại là hoạt động điều hành và đầu tư.
Một số ví dụ về dòng tiền từ hoạt động tài chính là: Phát hành trái phiếu (dòng tiền dương) Bán cổ phiếu quỹ (dòng tiền dương) Khoản vay từ một tổ chức tài chính (dòng tiền dương) Trả nợ các khoản vay hiện có (dòng tiền âm) Tiền từ cổ phiếu mới phát hành (dòng tiền dương) Trả cổ tức bằng tiền mặt cho người sở hữu cổ phiếu (dòng tiền âm) Mua cổ phiếu quỹ (dòng tiền âm) Mua lại cổ phiếu hiện có (dòng tiền âm) Mua lại trái phiếu (dòng tiền âm) Các hoạt động này có thể có hoặc không sử dụng tiền mặt. Tuy nhiên, chỉ những hoạt động ảnh hưởng đến tiền mặt mới được báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Các hoạt động không ảnh hưởng đến tiền mặt được gọi là các hoạt động tài trợ không dùng tiền mặt. Chúng bao gồm việc chuyển đổi nợ thành cổ phiếu phổ thông hoặc giải phóng trách nhiệm bằng cách phát hành một trái phiếu phải trả. Các hoạt động tài chính của một doanh nghiệp cung cấp thông tin chi tiết về tình trạng tài chính của doanh nghiệp và các mục tiêu của doanh nghiệp. Dòng tiền dương từ các hoạt động tài chính có thể cho thấy ý định mở rộng và tăng trưởng của doanh nghiệp. Khi tiền chảy vào nhiều hơn tiền chảy ra, số tiền dương cho thấy tài sản kinh doanh tăng lên. Mặt khác, dòng tiền âm từ hoạt động tài chính có thể báo hiệu sự cải thiện vị thế thanh khoản của doanh nghiệp và cũng cung cấp thông tin về chính sách cổ tức của doanh nghiệp.
2. Nguyên tắc thực hiện hoạt động tài chính:
Nguồn vốn của doanh nghiệp có thể từ vốn chủ sở hữu hoặc vốn vay. Khi doanh nghiệp gánh nợ, doanh nghiệp sẽ vay nợ ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Nó thực hiện thanh toán lãi suất cho các chủ nợ và trái chủ khi họ cho vay tiền. Nếu doanh nghiệp đi theo con đường vốn chủ sở hữu, nó sẽ phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư mua nó để lấy cổ phần trong công ty. Các hoạt động này được sử dụng để hỗ trợ hoạt động và các hoạt động chiến lược của một doanh nghiệp.
Dòng tiền – Huy động vốn
Tài trợ vốn chủ sở hữu: Điều này tương ứng với việc bán vốn chủ sở hữu của bạn để huy động vốn. Ở đây tiền được huy động mà không có bất kỳ nghĩa vụ phải trả bất kỳ gốc hoặc lãi nhưng với chi phí sở hữu. Đây là một dòng tiền mà nhìn bề ngoài thì có vẻ dễ kiếm tiền nhưng về lâu dài có thể rất tốn kém. Đôi khi, do công việc kinh doanh đang phát triển, bạn có thể phải trả lãi suất cao hơn mức lãi suất hiện hành trên thị trường.
Tài trợ bằng nợ: Một cách huy động vốn khác có thể là phát hành nợ dài hạn chẳng hạn như trái phiếu. Điều này, trái ngược với tài trợ vốn cổ phần, không làm loãng quyền sở hữu nhưng buộc công ty phải trả lãi cố định và trả lại tiền trong khung thời gian đã hứa, thông thường là 10 hoặc 20 năm.
Nếu công ty không phải là tổ chức vì lợi nhuận, thì đóng góp của các nhà tài trợ cũng có thể là một phần của khoản tài trợ.
Luồng ra – Vốn hoàn vốn
Hoàn trả vốn chủ sở hữu: Khi chủ sở hữu đã có đủ tài sản trong cửa hàng, họ muốn mua lại cổ phiếu của công ty và một lần nữa tăng quyền sở hữu của họ. Họ có thể làm như vậy thông qua nhiều cách như – mua cổ phiếu từ thị trường mở, chào bán hoặc đề xuất mua lại.
Trả nợ: Giống như bất kỳ khoản tiền gửi cố định nào, các công ty phải trả nợ sau một thời hạn nhất định như đã hứa tại thời điểm phát hành.
Trả cổ tức: Đây là một cơ chế mà các công ty thưởng cho các cổ đông của họ và chia sẻ lợi nhuận của họ với họ. Vì những khoản này phải chịu thuế, các công ty đôi khi sử dụng vốn để mua lại cổ phần từ các cổ đông bằng cách đưa ra đề nghị mua lại. Điều này làm giảm số lượng cổ phiếu trên thị trường và do đó làm tăng thu nhập trên mỗi cổ phiếu
3. Những thuận lợi và hạn chế của hoạt động tài chính:
3.1. Thuận lợi:
Các hoạt động tài trợ cung cấp nguồn nhiên liệu rất cần thiết để các công ty phát triển và mở rộng sang các thị trường mới. Các công ty thiếu vốn có thể mất cơ hội mới và khách hàng mới. Có thể dễ dàng tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra với những gã khổng lồ internet ngày nay như Facebook, Google hay thậm chí là OLA cây nhà lá vườn của chúng ta, nếu họ không thể huy động tiền cho các kế hoạch mở rộng của mình.Nó cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị cho các nhà đầu tư về tình hình tài chính của công ty. Ví dụ, hoạt động tài trợ như mua lại cổ phần thường xuyên cho thấy rằng những người thúc đẩy rất tích cực về câu chuyện tăng trưởng và muốn giữ quyền sở hữu. Đây là lý do tại sao các công ty chuyên về CNTT của Ấn Độ như Infosys và TCS đã liên tiếp mua lại trong 2 năm và điều này cũng được các nhà đầu tư cổ vũ. Mặt khác, nếu một công ty đang dễ dàng pha loãng vốn chủ sở hữu của mình, các nhà đầu tư có thể biết rằng công ty đó đang gặp khó khăn về tài chính. và đối mặt với các vấn đề trong việc huy động vốn từ các ngân hàng hoặc các tổ chức cho vay khác.
3.2. Nhược điểm:
Các hoạt động tài trợ thường là mối quan tâm của các cơ quan quản lý vì họ thường chú ý đến việc tiền được tài trợ như thế nào và nó được sử dụng vào việc gì. Các công ty nên thận trọng trong các hoạt động này vì một sai sót nhỏ có thể là lời mời cho sự giám sát của cơ quan quản lý dẫn đến rắc rối pháp lý kéo dài. Walmart mua cổ phần của Flipkart là một trong những ví dụ về hoạt động tài chính như vậy.Nhiều hơn số vốn đã được huy động khi xem xét cách thức mà số vốn này đã được huy động hoặc hoàn trả cho các nhà đầu tư. Luôn có một hàm ý về thuế mà kế toán của các công ty này nên xem xét. Ví dụ, các hoạt động tài trợ như trả cổ tức thu hút thuế, nhưng mua lại cổ phiếu thì không. Mặc dù khác nhau về dài hạn, cả hai cơ chế này đều giống nhau trong thời gian ngắn hạn, tức là thưởng cho chủ sở hữu cổ phiếu.
– Hạn chế
Cuối cùng, một công ty có thể trả nhiều tiền lãi hơn số tiền đã trả, nếu số tiền đó được huy động từ ngân hàng.Pha loãng vốn chủ sở hữu quá nhiều và không mua lại nó có thể trở thành một ví dụ về sự tiếp quản thù địch.Một lần nữa, việc pha loãng vốn chủ sở hữu có thể gây khó khăn trong việc thực hiện các quyết định vì sẽ khó làm hài lòng tất cả mọi người và đưa ra quyết định nhất trí.Đôi khi huy động vốn trở thành một kỹ năng đàm phán hơn là sức khỏe tài chính của công ty và do đó phụ thuộc rất nhiều vào tư duy của chủ sở hữu. Điều này có thể gây bất lợi cho các cổ đông.
– Điểm quan trọng
Có thể có nhiều cách để huy động và hoàn vốn. Quyết định làm như vậy phụ thuộc rất nhiều vào các cơ hội có sẵn, tỷ lệ lãi suất hiện hành, khả năng thương lượng của chủ sở hữu, sức khỏe của công ty, niềm tin của các nhà đầu tư và thành tích trong quá khứ.Không chỉ huy động vốn mà việc trả lại vốn bằng lãi suất cũng là một lĩnh vực cần quan tâm. Một sai lầm ở đây và có thể phải trả giá bằng các hệ lụy về thuế.
Như vậy có thể thấy rằng các công ty trên toàn cầu sử dụng kết hợp một cơ chế tài chính khác nhau để huy động vốn. Thay vì đi theo một cách duy nhất, họ sử dụng cả vốn chủ sở hữu và nợ để cải thiện chi phí vốn bình quân gia quyền WACC làm cho chi phí này càng thấp càng tốt. Cách thức thực hiện các hoạt động này có thể quyết định sự thành công hay thất bại của một công ty trong dài hạn.