Sự hình thành của Việt Minh là kết quả của một quá trình cách mạng diễn ra tại Việt Nam, thành công của tư tưởng độc lập và tự do cùng với chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh và Đảng. Dưới đây là bài viết về chủ đề: Hoàn cảnh ra đời, vai trò và ý nghĩa của Mặt trận Việt Minh, mời bạn đọc theo dõi.
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh ra đời của Mặt trận Việt Minh:
Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941) đóng góp một tầm quan trọng đối với việc thành lập mặt trận Việt Minh. Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai đang ngày càng lan rộng trên khắp thế giới và sự ác liệt của nó đang tăng cao, các phong trào giải phóng dân tộc và công nhân đang mạnh mẽ phát triển.
Vào thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc đã quay trở về nước (ngày 28-1-1941) để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng tại Việt Nam. Ngày 8-2-1941, Người đã thành lập cơ quan tại Pác Bó. Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, Người đã tổ chức Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị này đã quy tụ các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, cùng với một số đại biểu đến từ xứ ủy Bắc Kì, Trung Kì và một số đại biểu đang hoạt động ở nước ngoài.
Hội nghị đã thực hiện việc phân tích nguồn gốc và đặc điểm của các cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Từ những phân tích này, Hội nghị đã dự đoán rằng phe phát xít sẽ thất bại và phe đồng minh chống phát xít sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc đang trên đà suy yếu và phong trào cách mạng toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ.
Đối với tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định rằng kể từ khi chiến tranh bùng nổ, tất cả các tầng lớp nhân dân ở Đông Dương đều bị chịu đựng sự khốn khó, quyền lợi của tất cả các giai cấp đều bị vi phạm. Vì vậy, nhiệm vụ đánh bại Pháp và đuổi Nhật không chỉ thuộc về công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn bộ nhân dân Đông Dương.
Hội nghị đã xác định tính chất của cuộc cách mạng, đề ra rằng “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, tức là cuộc cách mạng chỉ giải quyết hai vấn đề cần thiết: “giải phóng dân tộc”. Vì thế, cuộc cách mạng Đông Dương ở giai đoạn hiện tại được xem là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
Hội nghị đã đề ra các chủ trương quan trọng như tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay vào đó bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian, chia cho dân cày nghèo”; chia lại đất công một cách công bằng; giảm địa tô, giảm tức. Hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất cho mỗi quốc gia trong khu vực, bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia.
Ngoài ra, Hội nghị đã thiết lập nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng Đảng, để đảm bảo rằng Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cho cách mạng dân tộc. Hội nghị đã chính thức bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới, và bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
2. Hoạt động của Mặt trận Việt Minh:
Từ tháng 5/1941 đến tháng 3/1945, Mặt trận Việt Minh đã tổ chức và hoạt động một cách có tổ chức và quyết liệt. Dưới đây là những điểm chính về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Việt Minh trong giai đoạn này:
2.1. Tổ chức:
Nhằm thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và mang tới bản sắc giải phóng dân tộc, vào ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh đã công bố tuyên ngôn, chương trình và điều lệ. Tuyên ngôn này đã khẳng định tầm quan trọng của sự đoàn kết dân tộc, đặc biệt là đại diện cho sự đa dạng và sự hiện diện của mọi tầng lớp nhân dân trong việc tham gia vào cuộc cách mạng giải phóng. Tuyên ngôn này đã quyết định rằng “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”. Mặt trận Việt Minh đã đặt quyền lợi dân tộc lên hàng đầu và hoan nghênh mọi cá nhân và tổ chức, bất kể tôn giáo hay xu hướng chính trị, nếu họ có mong muốn tham gia vào việc đánh Nhật-Pháp để xây dựng một Việt Nam tự do và độc lập.
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh gồm 44 điểm, đó là một hệ thống các chính sách liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục, xã hội, ngoại giao và cách xử lý với các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Mục tiêu của chương trình này là “làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập” và “làm cho Việt Nam được sung sướng, tự do”. Chương trình cứu nước đã được đúc kết thành 10 chính sách lớn và được thông qua tại đại hội Quốc dân Tân Trào vào tháng 8-1945. Những chính sách này đã tạo nên nền tảng quan trọng để đoàn kết và tập hợp các lực lượng dân tộc, và sau này đã trở thành cơ sở cho chính sách của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Mặt trận Việt Minh tổ chức một hệ thống có cơ chế tổ chức đặc biệt, khác biệt so với cơ chế của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tại các xã, Ban chấp hành Việt Minh được bổ nhiệm từ các đoàn thể Việt Minh ở làng hoặc xã. Cấp tổng, huyện, tỉnh và khu vực có Ban chấp ủy Việt Minh tương ứng. Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ. Ngoài các đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc,…), Mặt trận Việt Minh còn tiếp nhận các đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội cứu tế thất nghiệp, Hội tương tế, Hội hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,…
2.2. Mặt hoạt động:
Trong giai đoạn từ tháng 5/1941 đến tháng 3/1945, Mặt trận Việt Minh đã triển khai các hoạt động quan trọng nhằm chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang và cách mạng tháng Tám. Cụ thể:
a. Xây dựng lực lượng chính trị:
Mặt trận Việt Minh đã tập trung vào việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thông qua việc thành lập các Hội cứu quốc như Hội công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, phụ lão cứu quốc và nhi đồng cứu quốc. Cụ thể, khu vực Cao Bằng đã là nơi thử nghiệm xây dựng các Hội cứu quốc. Đến năm 1942, tại 9 châu của tỉnh Cao Bằng đã thành lập Hội cứu quốc.
b. Xây dựng lực lượng vũ trang:
Mặt trận Việt Minh đã tạo ra các lực lượng vũ trang cần thiết để tham gia cuộc cách mạng. Ban đầu, đội du kích Bắc Sơn và Vũ Nhai đã hợp nhất thành cứu quốc quân. Đặc biệt, ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Cao Bằng, Võ Nguyên Giáp đã thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Võ Nguyên Giáp làm đội trưởng.
c. Xây dựng căn cứ địa cách mạng:
Mặt trận Việt Minh đã tạo ra các căn cứ địa cách mạng như căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và căn cứ PăcPó – Cao Bằng sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước. Tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được hình thành với 6 tỉnh thành viên.
d. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang tiến tới Cách mạng tháng Tám:
Mặt trận Việt Minh đã chủ động thực hiện chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang và cách mạng tháng Tám. Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh đã ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã hình thành và sẵn sàng tham gia các hoạt động quân sự như hạ đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Ngày 9/3/1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, Mặt trận Việt Minh đã phát lệnh kêu gọi toàn quốc đẩy mạnh kháng Nhật cứu nước.
3. Vai trò và ý nghĩa của Mặt trận Việt Minh:
– Mặt trận Việt Minh trong chuẩn bị cách mạng và khởi nghĩa tháng Tám năm 1945:
Mặt trận Việt Minh có vai trò quan trọng trong việc định hướng, xây dựng và phát triển các yếu tố chính trị và quân sự cần thiết cho cuộc cách mạng, đặc biệt là chuẩn bị cho sự kiện tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
– Xác định đường lối và chính sách hợp lý:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và thông qua Mặt trận Việt Minh, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh và tiểu thương từ năm 1941 đến 1945 đã có những bước tiến quan trọng. Trong giai đoạn tăng cường kháng Nhật cứu nước, việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và thiết lập chính sách đoàn kết, phân biệt kẻ thù trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Vào ngày 12/04/1945, Mặt trận Việt Minh đã phát lời kêu gọi “Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức Việt Nam” và “mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc”, đóng góp vào quá trình phân loại và tách biệt các quan chức ngụy quyền để chuẩn bị cho thời điểm cách mạng bùng nổ.
– Tập hợp đông đảo người tham gia kháng Nhật cứu nước:
Để gắn kết cộng đồng tham gia cách mạng, ngoài việc định rõ mục tiêu cách mạng và xác định kẻ thù, Mặt trận Việt Minh cũng đã đưa ra chính sách thích hợp và đúng đắn. Để đáp ứng nguyện vọng quần chúng, họ đã tạo ra khẩu hiệu đấu tranh thích hợp: “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Phong trào này không chỉ mang ý nghĩa kinh tế ngay lập tức, mà còn đậm chất chính trị. Qua việc đấu tranh, quần chúng đã nhận thức rõ rằng để đảm bảo quyền sống, họ phải đoàn kết đánh bại thống trị của phát xít Nhật và tay sai của họ.
– Lãnh đạo khởi nghĩa tháng Tám năm 1945:
Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, Mặt trận Việt Minh tiếp tục định hướng chiến lược và biện pháp đấu tranh để lãnh đạo người dân tham gia khởi nghĩa và chiếm lấy quyền lực chính quyền. Việt Minh đã từng bước đưa ra các hướng dẫn và biện pháp phù hợp để điều hành cuộc khởi nghĩa.
– Xây dựng lực lượng chính trị cách mạng và tập hợp quần chúng nhân dân:
Mặt trận Việt Minh đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển lực lượng chính trị cách mạng, gom góp quần chúng dưới lá cờ của Đảng, qua một mặt trận thống nhất. Điều này tạo nền tảng quan trọng cho sự thành công của cuộc khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Ngay sau khi ra đời, Mặt trận Việt Minh đã thu hút tích cực sự tham gia của một loạt các tầng lớp nhân dân. Từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các tổ chức như Hội Công nhân cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Quân nhân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Tự vệ cứu quốc,… đã được thành lập trong nhiều tỉnh miền Bắc và một số khu vực miền Trung cùng các thành phố lớn như Hà Nội và Hải Phòng. Các tổ chức chống đối cũng đã được đưa vào cấu trúc của mặt trận cứu quốc.
– Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và nổi dậy khởi nghĩa:
Mặt trận Việt Minh đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện cuộc khởi nghĩa và giành chính quyền thành công khi thời cơ đến.
Trên cơ sở của sự đông đảo của lực lượng chính trị do Mặt trận Việt Minh tổ chức và tập hợp, Đảng đã hướng dẫn việc trang bị vũ khí cho quần chúng cách mạng, từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Như vậy, vào ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã ra đời dưới sự tổ chức và lãnh đạo của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Đội này được hình thành trong khu rừng của huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, và bao gồm 34 chiến sĩ là những người cách mạng tập hợp dưới biểu ngữ của Việt Minh. Đội này đã phát triển mạnh mẽ trong thời gian ngắn.
Cuối tháng 4 năm 1945, Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị quân sự Cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) để giải quyết các vấn đề quân sự. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ quân sự ưu tiên và quyết định phát triển lực lượng vũ trang. Thành lập nửa vũ trang và thống nhất các lực lượng vũ trang có sẵn thành Việt Nam giải phóng quân đã được quyết định. Vào ngày 15/05/1945, Việt Nam giải phóng quân được thành lập, chủ động tăng cường, củng cố và chuẩn bị hoạt động, đẩy mạnh đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.