Mục lục bài viết
1. Sự hình thành các vương quốc phong kiến Tây Âu:
Từ thế kỷ III, đế quốc Rô-ma lâm vào tình trạng khủng hoảng, cuộc đấu tranh của nô lệ dẫn đến tình trạng sản xuất sút kém, xã hội rối ren.
Người Gecmanh vốn là những tộc người sống ở phía Bắc và Đông Bắc của đế quốc Rôma cổ đại từ nhiều thế kỉ trước. Họ là những chủng tộc lớn thuộc chủng Ấn- Âu. Ngay từ thế kỉ II- III, họ đã thiên di vào lãnh thổ đế quốc Rôma. Họ là những bộ tộc đang ở giai đoạn cuối cùng của chế độ xã hội nguyên thủy.
Cuối thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, nhân sự suy yếu của đế quốc Rôma, người Gecmanh đã tràn vào một cách ồ ạt, chiếm đất của người Rôma và lập nên những vương quốc riêng của họ như vương quốc Tây Gôt (thành lập trên lãnh thổ miền nam xứ Gôlơ, lãnh thổ Tây Ban Nha), Vương quốc Văngđan (bao gồm Bắc Phi, các đảo phía tây Địa Trung Hải), vương quốc Buôcgôngđơ (gồm miền đông nam xứ Gôlơ), vương quốc Ănglôxăcxông (gồm bán đảo Britani), vương quốc Đông Gôt (bán đảo Italia), vương quốc Phrăng (Đông Bắc xứ Gôlơ).
Trong số các vương quốc do người Gecmanh thành lập, chỉ có vương quốc Phrăng tồn tại lâu dài nhất và đồng thời là quốc gia có vai trò quan trọng nhất ở Tây Âu trong thời sơ kì trung đại.
Năm 476, đế quốc Rô-ma bị diệt vong, chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, thời đại phong kiến bắt đầu ở châu Âu.
+ Khi vào lãnh thổ của Rô-ma, người Giéc-man đã thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, lập nhiều vương quốc mới như vương quốc Ăng-glô Xắc-xông, Phơ-răng, Tây Gốt, Đông Gốt…
+ Họ chiếm đất của chủ nô Rô-ma chia cho quý tộc và tướng lĩnh quân sự.
+ Tự phong các tước vị, hình thành tầng lớp quý tộc. Các thủ lĩnh bộ lạc, các quý tộc thị tộc người Giéc-man tự phong các tước vị (công tước, bá tước, nam tước, …) hình thành tầng lớp quý tộc vũ sĩ.
+ Từ bỏ tôn giáo nguyên thủy và tiếp thu Kitô giáo, xây dựng nhà thờ. Kito giáo dần dần có vai trò và có ưu thế trong đời sống nhân dân (Họ xây dựng nhà thờ và tìm cách chiếm ruộng đất của nông dân, đồng thời nhà vua cũng phong tặng đất đai theo tước vị cho các quý tộc và nhà thờ).
– Tầng lớp quý tộc và tăng lữ được hình thành, có đặc quyền và giàu có, trở thành các lãnh chúa phong kiến, còn nô lệ và nông dân biến thành nông nô, phụ thuộc lãnh chúa. Quan hệ sản xuất phong kiến châu Âu hình thành, diễn ra mạnh mẽ nhất ở Vương quốc Phờ răng.
2. Sự hình thành và phái triển của chế độ phong kiến Tây Âu:
Từ thế kỉ V- IX là thời kì xác lập của chế độ phong kiến ở Tây Âu, sự ra đời của chế độ phong kiến ở Tây Âu được hình thành trên cơ sở đổ nát của chế độ chiếm hữu nô lệ Rôma và sự giải thể của chế độ thị tộc của người Gecman. Sự ra đời của quan hệ sản xuất phong kiến gắn liền với sự hình thành hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến đó là giai cấp lãnh chúa và giai cấp nông nô. Muốn có hai giai cấp này phải trải qua một quá trình phong kiến hóa, đó là quá trình ruộng đất vào trong tay một số người để biến thành lãnh chúa phong kiến và đồng thời với quá trình trên là quá trình người nông dân tự do bị tước đoạt mất ruộng đất cùng với các tầng lớp nhân dân khác biến thành nông nô.
2.1. Sơ kì trung đại (thế kỉ V- XI): thời kì hình thành chế độ phong kiến:
– Từ thế kỉ V – IX, chế độ phong kiến ở Tây Âu đã được hình thành thông qua quá trình “phong kiến hóa„
+ Dưới thời Clôvit thực hiện chế độ ban tặng ruộng đất cho quý tộc thị tộc Gecmanh, thân binh, chủ nô Rôma phục tùng chính quyền mới, tăng lữ trong nhà thời Kitô giáo. Lúc đầu đó là ruộng đất “ân tứ„- một hình thức cho không ruộng đất, như một ân huệ của nhà vua đối với người có công. Sau dần biến thành đất Anlơ (đất tự do)- có quyền nhượng lại, mua bán, trao đổi.
+ Dưới thời trị vì của tể tướng Saclơ Macten, thực hiện chế độ ban cấp ruộng đất, gọi là Bênêphixium (đất phong quân vụ). Có nghĩa là người nhận ruộng đất phong cấp phải có nghĩa vụ quân sự đối với người ban cấp ruộng đất cho mình. Người được phong đất phải thề trung thành với tôn chủ (người phong đất) và phải thực hiện nghĩa vụ quân sự 40 ngày/năm, đất phong chỉ được sử dụng suốt đời chứ không được truyền cho con cháu, có thể bị chủ đất lấy lại nếu người nhận đất không làm tròn bổn phận.
Vì vậy đã hình thành hai giai cấp mới trong xã hội là giai cấp lãnh chúa phong kiến và giai cấp nông nô. Người nông dân tự do bị chiếm đoạt ruộng đất, bị lệ thuộc vào lãnh chúa và trở thành nông nô, phải nộp địa tô cho lãnh chúa (địa tô lao dịch, hiện vật, tiền) và phải chịu nhiều nghĩa vụ khác (lao dịch, binh dịch).
– Từ thế kỉ IX- XI: là thời kì tồn tại của chế độ phong kiến phân quyền. Toàn bộ nền kinh tế Tây Âu tập trung trong các lãnh địa phong kiến. Mỗi lãnh địa phong kiến là một vương quốc khép kín riêng, mỗi lãnh chúa là 1 ông vua con và mỗi lãnh địa là một đơn vị kinh tế- chính trị độc lập.
2.2. Trung kì trung đại (XI- XV): thời kì phát triển của chế độ phong kiến:
– Thế kỉ XI, thành thị trung đại Tây Âu ra đời đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của chế độ phong kiến Tây Âu trên tất cả các mặt kinh tế- chính trị – xã hội – văn hóa.
+ Thành thị ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa, làm tan rã nhanh chóng nền kinh tế tự nhiên.
+ Thành thị ra đời góp phần làm giải thế chế độ nông nô. Đồng thời làm xuất hiện một tầng lớp xã hội mới là tầng lớp thị dân. Thị dân tuy ít về số lượng nhưng lại nắm phần lớn của cải của xã hội và ngày càng lớn mạnh. Họ có vai trò to lớn trong đời sống chính trị Tây Âu, là lực lượng đồng minh của nhà vua, là hạt nhân để chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang tập quyền.
+ Thành thị ra đời đóng vai trò tích cực chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang tập quyền.
– Mac đã nhận xét: thành thị ở phương Đông giống như những cái bướu thừa mọc trên cơ thể, còn ở phương Tây thành thị là những bông hoa rực rỡ của thời trung đại…
Thành thị không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm kinh tế- văn hóa. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của thành thị trung đại Tây Âu đã chứa đựng trong nó những nhân tố làm tan rã chế độ phong kiến từ trong lòng của chế độ đó.
2.3. Hậu kì trung đại (thế kỉ XV- XVI):
Đây là thời kì suy tàn của chế độ phong kiến Tây Âu, quan hệ sản xuất TBCN đã xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến Tây Âu.
– Về kinh tế:
+ Kinh tế hàng hóa tiền tệ phát triển, đẩy lùi kinh tế tự nhiên, các tổ chức kinh tế theo lối phong kiến được thay thế bằng các hình thức sản xuất mới theo lối TBCN. VD: phường hội được thay thế bằng các công trường thủ công.
+ Các tổ chức hội buôn được thay bằng các công ty thương mại.
+ Trong nông nghiệp: các lãnh địa bị xóa bỏ, thay bằng các trang trại kinh doanh theo lối TBCN.
– Về xã hội: quan hệ xã hội đã có sự thay đổi, ở thời sơ và trung kì quan hệ bóc lột là lãnh chúa đối với nông nô đã thay bằng quan hệ bóc lột giữa chủ và thợ. Hình thức bóc lột lao động làm thuê, bóc lột giá trị thặng dư thay cho hình thức bóc lột có tính chất cưỡng bức người nông nô. Công thức là chủ xuất vốn, thợ xuất sức.
Trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới là giai cấp tư sản (một số thương nhân giàu có, một số chủ đất, một bộ phận thị dân giàu có). Bên cạnh những mâu thuẫn cũ trong xã hội, xuất hiện thêm những mâu thuẫn mới: Tư sản và phong kiến, tư sản và vô sản. Trong đó mâu thuẫn tư sản và vô sản mới nảy sinh, chưa sâu sắc. Còn mâu thuẫn giữa tư sản và phong kiến mới là mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu ở thời hậu kì. Do đó, đấu tranh của tư sản chống phong kiến là động lực thúc đẩy xã hội phong kiến Tây Âu hậu kì, làm cho xã hội phong kiến tan rã nhanh hơn, mở đường cho sức sản xuất TBCN phát triển.
– Về chính trị: Từ cuối thế kỉ XV, chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã hình thành, tiếp tục phát triển thành nhà nước quân chủ chuyên chế (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha). Bên cạnh vua vẫn có nghị viện, hội nghị 3 đẳng cấp như một cơ quan tư vấn giúp nhà vua cai trị. Nhà nước quân chủ chuyên chế thời kì này có sự liên minh giữa tư sản và phong kiến. Chính quyền phong kiến khuyến khích tư sản kinh doanh phát triển kinh tế nhưng trong khuôn khổ của chế độ phong kiến.
– Về văn hóa: thời kì này diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt về văn hóa tư tưởng giữa giai cấp tư sản và phong kiến, được biểu hiện qua các phong trào Văn hóa Phục hưng, cải cách tôn giáo, chiến tranh nông dân Đức, Cách mạng tư sản Nêđeclan.
3. Tình hình văn hoá Tây Âu:
Khi vào lãnh thổ Tây bộ Rôma, người Gecman đã tàn phá nặng nề những di sản của nền văn minh cổ đại ở đây, chỉ duy nhất không xâm phạm các nhà thờ và tu viện Kitô giáo. Trong các vương quốc của người Gecman, hầu hết giai cấp quý tộc, kể cả nhà vua đều mù chữ, cũng như không có trường học nào ngoài trường Dòng. Tầng lớp giáo sĩ là tầng lớp duy nhất biết chữ (nhưng họ biết chữ chỉ để học và giảng kinh thánh)
Nội dung học tập chủ yếu trong các trường Dòng là Thần học- môn học được coi là “bà chúa của khoa học„. Các môn học khác như: Ngữ pháp, Tu từ học, Lôgic học, Số học, Hình học, Thiên văn học, Âm nhạc…đều nhằm bổ trợ và phục vụ cho Thần học.
Tóm lại, văn hóa Tây Âu thời sơ kì trung đại hết sức thấp kém và hoàn toàn bị giáo hội Kitô lũng đoạn. Những gì trái với Kinh thánh đều bị giáo hội vùi dập không thương tiếc. Châu Âu thời kì này chìm đắm trong “đêm trường tủng cổ”