Hiệu ứng Hawthorne là xu hướng của những người là đối tượng của một nghiên cứu thử nghiệm để thay đổi hoặc cải thiện hành vi đang được đánh giá chỉ vì nó đang được nghiên cứu chứ không phải do những thay đổi trong các thông số thử nghiệm hoặc kích thích. Nghiên cứu và ví dụ về hiệu ứng Hawthorne?
Đối với hiệu ứng Hawthorne là một trong những thí nghiệm liên quan đến những hoạt động về tâm lý của những chủ thể khi tham gia vào quá trình làm việc. Việc này được hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là khi một người lao động được quan tâm bởi quản lý và khách hàng hơn thì năng suất và hiệu quả làm việc của họ cũng sẽ tăng lên.
1. Hiệu ứng Hawthorne là gì?
Hiệu ứng Hawthorne là xu hướng của những người là đối tượng của một nghiên cứu thử nghiệm để thay đổi hoặc cải thiện hành vi đang được đánh giá chỉ vì nó đang được nghiên cứu chứ không phải do những thay đổi trong các thông số thử nghiệm hoặc kích thích. Hiệu ứng Hawthorne đề cập đến xu hướng ở một số cá nhân thay đổi hành vi của họ để đáp ứng với nhận thức của họ về việc được quan sát. Hiện tượng này ngụ ý rằng khi mọi người nhận thức được rằng họ là đối tượng trong một thí nghiệm, thì sự chú ý mà họ nhận được từ những người làm thí nghiệm có thể khiến họ thay đổi hành vi của mình.
Hiệu ứng Hawthorne đề cập đến thực tế là mọi người sẽ sửa đổi hành vi của họ chỉ đơn giản là vì họ đang được quan sát. Hiệu ứng này được đặt tên từ một trong những thí nghiệm lịch sử công nghiệp nổi tiếng nhất diễn ra tại nhà máy Western Electric’s ở ngoại ô Hawthorne của Chicago vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Hiệu ứng Hawthorne đề cập đến sự gia tăng hiệu suất của những cá nhân được các nhà nghiên cứu hoặc giám sát chú ý, theo dõi và chú ý. Năm 1958, Henry A. Landsberger đặt ra thuật ngữ ‘Hiệu ứng Hawthorne’ trong khi đánh giá một loạt các nghiên cứu tại một nhà máy gần Chicago, Western Electric’s Hawthorne Works. Hiệu ứng mới lạ, đặc điểm nhu cầu và phản hồi về hiệu suất có thể giải thích những gì được nhiều người coi là hiệu ứng Hawthorne.Mặc dù những tác động có thể có của hiệu ứng Hawthorne vẫn còn phù hợp trong nhiều bối cảnh, nhưng những phát hiện nghiên cứu gần đây đã thách thức nhiều kết luận ban đầu liên quan đến hiện tượng này.
Tuy nhiên, phân tích sau đó về tác động của các nhà kinh tế Đại học Chicago vào năm 2009 cho thấy rằng các kết quả ban đầu có thể đã bị phóng đại quá mức. Các thí nghiệm ở Hawthorne ban đầu được thiết kế bởi Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia để nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng sàn cửa hàng đối với năng suất của công nhân tại một nhà máy sản xuất linh kiện điện thoại ở Hawthorne. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã bối rối khi thấy rằng năng suất được cải thiện, không chỉ khi ánh sáng được cải thiện, mà còn khi ánh sáng bị giảm bớt.
Năng suất được cải thiện bất cứ khi nào thay đổi được thực hiện trong các biến khác như giờ làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng năng suất của công nhân không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong điều kiện làm việc, mà là do ai đó quan tâm đến điều kiện làm việc của họ để tiến hành một thí nghiệm.
2. Nghiên cứu và ví dụ về hiệu ứng Hawthorne:
Nghiên cứu thường dựa vào đối tượng là con người. Trong những trường hợp này, Hiệu ứng Hawthorne là thiên hướng nội tại mà các nhà nghiên cứu phải xem xét khi nghiên cứu phát hiện của họ. Mặc dù việc xác định nhận thức của một đối tượng về một nghiên cứu có thể sửa đổi hành vi của họ có thể là một thách thức như thế nào, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nên cố gắng lưu tâm đến hiện tượng này và điều chỉnh cho phù hợp. Mặc dù không có phương pháp luận được thống nhất rộng rãi để đạt được điều này, nhưng kinh nghiệm và sự quan tâm sâu sắc đến tình hình có thể giúp các nhà nghiên cứu ngăn chặn tác động này làm hoen ố kết quả của họ. Mặc dù việc xác định nhận thức của một đối tượng về một nghiên cứu có thể sửa đổi hành vi của họ có thể là một thách thức như thế nào, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nên cố gắng lưu tâm đến hiện tượng này và điều chỉnh cho phù hợp.
Hiệu ứng Hawthorne được đặt tên theo một loạt các nghiên cứu được thực hiện tại Nhà máy Western Electric’s Hawthorne ở Cicero trong những năm 1920. Các nhà khoa học trong nhóm nghiên cứu này là Elton Mayo (Nhà tâm lý học), Roethlisberger và Whilehead (Nhà xã hội học) và William Dickson (đại diện công ty). Có 4 thí nghiệm riêng biệt trong Nghiên cứu Hawthorne:
– Thí nghiệm chiếu sáng (1924-1927):
Nghiên cứu đầu tiên và có ảnh hưởng nhất trong số những nghiên cứu này được gọi là “Thí nghiệm về độ chiếu sáng”, được thực hiện từ năm 1924 đến năm 1927 (được tài trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia). Công ty đã tìm cách xác định liệu có mối quan hệ giữa năng suất và môi trường làm việc (ví dụ: mức độ chiếu sáng trong nhà máy). Trong nghiên cứu đầu tiên, một nhóm công nhân chế tạo rơ le điện đã trải qua một số thay đổi về ánh sáng. Hiệu suất của chúng đã được quan sát để đáp ứng với những thay đổi nhỏ nhất trong ánh sáng. Những gì các nhà nghiên cứu ban đầu phát hiện ra là bất kỳ thay đổi nào trong một biến số, chẳng hạn như mức độ chiếu sáng, đều dẫn đến sự cải thiện về năng suất. Điều này đúng ngay cả khi sự thay đổi là tiêu cực, chẳng hạn như sự trở lại của ánh sáng kém.
Tuy nhiên, những lợi ích về năng suất này đã biến mất khi sự chú ý trở nên mờ nhạt (Roethlisberg & Dickson, 1939). Kết quả ngụ ý rằng sự gia tăng năng suất chỉ là kết quả của tác động tạo động lực cho công nhân của công ty (Cox, 2000). Nhận thức của họ về việc được quan sát rõ ràng đã khiến họ tăng sản lượng của mình. Có vẻ như sự chú ý tăng lên từ các giám sát viên có thể cải thiện hiệu suất công việc.
– Thí nghiệm phòng thử nghiệm lắp ráp rơ le (1927-1932)
Được thúc đẩy bởi những phát hiện ban đầu này, một loạt các thí nghiệm đã được tiến hành tại nhà máy trong vòng 8 năm sau đó. Từ năm 1928 đến năm 1932, Elton Mayo (1880–1949) và các đồng nghiệp của ông đã bắt đầu một loạt các nghiên cứu kiểm tra những thay đổi trong cơ cấu công việc (ví dụ, những thay đổi trong thời gian nghỉ ngơi, thời gian làm việc trong ngày và các điều kiện thể chất khác.)
Kết quả của các nghiên cứu Elton Mayo đã củng cố những phát hiện ban đầu của thí nghiệm chiếu sáng. Tóm tắt kết quả của vòng thí nghiệm tiếp theo như sau: Phân tích các phát hiện của Landsberger (1958) đã dẫn đến thuật ngữ hiệu ứng Hawthorne, mô tả sự gia tăng hiệu suất của những cá nhân được các nhà nghiên cứu hoặc giám sát chú ý, theo dõi và chú ý.
– Thử nghiệm trong việc phỏng vấn công nhân (1928-1930)
Trong một nghiên cứu riêng biệt được thực hiện từ năm 1927 đến năm 1932, sáu phụ nữ làm việc cùng nhau để lắp ráp rơ le điện thoại đã được quan sát (Trường Kinh doanh Harvard, Bộ sưu tập lịch sử). Sau quá trình đo lường bí mật về sản lượng của họ trong hai tuần, những người phụ nữ được chuyển đến một phòng thí nghiệm đặc biệt. Phòng thí nghiệm, nơi họ sẽ chiếm trong phần còn lại của nghiên cứu, có một người giám sát đã thảo luận về những thay đổi khác nhau đối với công việc của họ.
Những thay đổi tiếp theo mà phụ nữ trải qua bao gồm thời gian nghỉ thay đổi về thời lượng và mức độ đều đặn, cung cấp (và không cung cấp) thực phẩm và thay đổi thời gian của ngày làm việc. Phần lớn, những thay đổi đối với các biến này (bao gồm cả việc quay trở lại trạng thái ban đầu) đi kèm với sự gia tăng năng suất. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng nhận thức của phụ nữ về việc được giám sát, cũng như tinh thần đồng đội được tạo ra từ môi trường gần gũi đã cải thiện năng suất của họ (Mayo, 1945).
Sau đó, một nghiên cứu liên quan được thực hiện bởi W. Lloyd Warner và Elton Mayo, các nhà nhân chủng học từ Harvard (Henslin, 2008). Họ đã thực hiện thí nghiệm trên 14 người đàn ông lắp ráp thiết bị chuyển mạch điện thoại. Những người đàn ông được đặt trong một căn phòng cùng với một người quan sát toàn thời gian, người sẽ ghi lại tất cả những gì đã diễn ra. Người lao động được trả lương dựa trên năng suất cá nhân của họ. Tuy nhiên, kết quả đáng ngạc nhiên là năng suất giảm. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người đàn ông này đã nghi ngờ rằng việc tăng năng suất sẽ dẫn đến việc công ty phải giảm lãi suất cơ bản hoặc tìm lý do để sa thải một số công nhân.
– Phòng thí nghiệm hệ thống dây ngân hàng (1931-1932)
Ví dụ về Hiệu ứng Hawthorne, hãy xem xét một nghiên cứu năm 1978 được thực hiện để xác định xem liệu các chất kích thích thần kinh tiểu não có thể làm giảm rối loạn chức năng vận động của những người trẻ bị bại não hay không. Thử nghiệm khách quan cho thấy các bệnh nhân trong nghiên cứu khẳng định rằng chứng rối loạn vận động của họ đã giảm và họ chấp nhận phương pháp điều trị. Nhưng phản hồi của bệnh nhân này đã phản bác kết quả phân tích định lượng, chứng minh rằng có rất ít chức năng vận động tăng lên.
Thật vậy, sự tương tác giữa con người với bác sĩ, y tá, nhà trị liệu và các nhân viên y tế khác trong các thử nghiệm này tăng lên đã có tác động tâm lý tích cực đến bệnh nhân, do đó nuôi dưỡng ảo tưởng của họ về những cải thiện thể chất đối với tình trạng của họ. Khi phân tích kết quả, các nhà nghiên cứu kết luận rằng Hiệu ứng Hawthorne ảnh hưởng tiêu cực đến dữ liệu, vì không có bằng chứng cho thấy các chất kích thích thần kinh tiểu não có hiệu quả đo lường được.
Hiệu ứng Hawthorne là khi các đối tượng của một nghiên cứu thử nghiệm cố gắng thay đổi hoặc cải thiện hành vi của họ chỉ vì nó đang được đánh giá hoặc nghiên cứu.Thuật ngữ này được đặt ra trong các thí nghiệm diễn ra tại nhà máy của Western Electric ở ngoại ô Hawthorne của Chicago vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930.Hiệu ứng Hawthorne được cho là không thể tránh khỏi trong các nghiên cứu và thí nghiệm sử dụng con người làm đối tượng.