Hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên hẳn là một thuật ngữ khá quen thuộc trong thực tiễn đời sống nhất là đối với những ai hoạt động trong lĩnh vực kinh tế - tài chính. Hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên ra đời. Cùng bài viết dưới đây tìm hiểu về hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên là gì? Nội dung và ví dụ thực tiễn.
Mục lục bài viết
1. Hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên là gì?
Khái niệm hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên:
Hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên, tiếng Anh gọi là neglected firm effect.
Hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên thực chất chính là lý thuyết giải thích cho xu hướng các công ty ít tên tuổi thường vượt trội hơn so với các công ty có danh tiếng.
Hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên đưa ra giả thiết rằng cổ phiếu của các công ty ít tên tuổi có thể tạo ra lợi nhuận cao hơn vì chúng ít được những chủ thể là những nhà phân tích thị trường xem xét kĩ lưỡng. Những công ty nhỏ cũng có thể có hiệu quả tốt hơn vì tiềm năng rủi ro cao/lợi nhuận cao với tỉ lệ tăng trưởng tương đối cao hơn.
Các Hiệu ứng công ty bị lãng quên được biết đến chính là hiện tượng các công ty ít tên tuổi sản xuất cao một cách bất thường trả lại trên của họ cổ phiếu. Các công ty theo sau ít hơn chủ thể là những nhà phân tích sẽ kiếm được lợi nhuận trung bình cao hơn so với các công ty được nhiều chủ thể là những nhà phân tích theo dõi. Lợi nhuận cao bất thường của các công ty bị bỏ quên có thể là do thanh khoản hoặc rủi ro cao hơn liên quan đến cổ phiếu.
Dựa theo Investopedia ta hiểu như sau: “Các công ty bị bỏ quên thường là các công ty nhỏ mà các chủ thể là những nhà phân tích có xu hướng bỏ qua. Thông tin có sẵn về các công ty này có xu hướng bị giới hạn ở những mặt hàng được luật pháp yêu cầu, mặt khác, có cấu hình cao hơn, cung cấp lượng lớn chất lượng thông tin (ngoài các biểu mẫu bắt buộc về mặt pháp lý) cho các chủ thể là những nhà đầu tư tổ chức như lương hưu hoặc là quỹ tương hỗ các công ty.”
2. Hiểu rõ hơn về hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên:
Các công ty nhỏ không được xem xét và phân tích theo kiểu của những công ty lớn.
Ví dụ cụ thể như với những công ty blue-chip có uy tín và tài chính, đã hoạt động trong nhiều năm, chủ thể là những nhà phân tích có một lượng lớn thông tin để sử dụng và từ đó hình thành ý kiến và đưa ra khuyến nghị.
Thông tin liên quan đến các công ty nhỏ thường chỉ giới hạn trong những hồ sơ mà pháp luật yêu cầu. Cũng chính bởi vì thế mà các công ty này bị những chủ thể là những nhà phân tích “bỏ quên” bởi vì vốn có rất ít thông tin để xem xét và đánh giá.
Tranh cãi về hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên:
Trong một nghiên cứu vào năm 1983 về hiệu suất của 510 công ty qua một thập kỉ (1971-1980), ba giáo sư của Đại học Cornell đã phát hiện ra rằng cổ phiếu của các công ty bị những tổ chức bỏ quên vượt trội hơn hẳn các cổ phiếu được những tổ chức này nắm giữ.
Sự vượt trội này còn vượt qua “hiệu ứng doanh nghiệp nhỏ” bởi vì cả những doanh nghiệp vừa và nhỏ bị bỏ quên đều vượt trội. Nghiên cứu cũng đã cho thấy việc đầu tư vào những cổ phiếu này có thể là một chiến lược đầu tư giàu tiềm năng cho các chủ thể là những nhà đầu tư tổ chức và nhỏ lẻ.
Trong một nghiên cứu khác, các công ty trong chỉ số S&P 500 bị những chủ thể là những nhà phân tích chứng khoán bỏ quên đã vượt trội hơn các cổ phiếu được theo dõi nhiều trong giai đoạn từ năm 1970-1979. Trong khoản thời gian chín năm này, các chứng khoán bị thờ ơ nhất trong chỉ số S&P 500 đạt mức lợi nhuận trung bình là 16,4% mỗi năm (bao gồm cổ tức), so với mức lợi nhuận trung bình 9,4% hàng năm của nhóm được theo dõi nhiều.
Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 1997 về hiệu suất của 7117 công ty đại chúng trong giai đoạn từ tháng giêng năm 1982 đến tháng mười hai năm 1995, Craig G. Beard và Richard W. Sias không tìm thấy bằng chứng ủng hộ nào cho hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên sau khi kiểm tra mối tương quan giữa việc bị bỏ quên và vốn hóa.
Họ cho rằng hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên có thể đã biến mất theo thời gian vì các chủ thể là những nhà đầu tư đã khai thác nó. Những chủ thể là những nhà đầu tư tổ chức có thể đã tăng cường đầu tư vào cổ phiếu vốn hóa nhỏ trong những năm qua, và các nghiên cứu tìm ra hiệu ứng doanh nghiệp bị bỏ quên trong những năm 70 có thể chỉ là một ví dụ nhất định.
3. Một số thuật ngữ liên quan:
Cổ phiếu:
Cổ phiếu được biến đến chính là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu cổ phần của tổ chức phát hành.
Chứng khoán thực chất được đánh giá chính là khái niệm được dùng khi đề cập đến các sản phẩm tài chính xác nhận sở hữu hợp pháp đối với tài sản hoặc phần vốn của công ty hay tổ chức đã phát hành. Khái niệm chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ, chứng quyền…
Trong đó, cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu cổ phần của tổ chức phát hành. Chủ thể là những người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông của công ty phát hành.
Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
– Các chủ thể là những người nắm giữ cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) có quyền dự họp đại hội cổ đông cũng như có quyền biểu quyết những vấn đề lớn của công ty.
– Còn với cổ phiếu ưu đãi, tùy vào loại hình ưu đãi mà người nắm giữ sẽ hoặc được hưởng một số đặc quyền hơn hoặc bị hạn chế một số quyền so với cổ đông phổ thông.
Có ba loại cổ phiếu ưu đãi phổ biến cụ thể chúng ta có thể kể đến đó chính là:
+ Cổ phiếu ưu đãi cổ tức: được trả cổ tức cao hơn người nắm cổ phiếu phổ thông nhưng bị loại trừ quyền biểu quyết, dự họp đại hội cổ đông hay đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
+ Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại: người nắm giữ cổ phiếu này được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được thoả thuận trước.
Nhưng người nắm cổ phiếu này cũng bị loại trừ quyền biểu quyết, dự họp đại hội cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
+ Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: đây thực chất chính là cổ phiếu có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông.
Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết có các quyền khác như cổ đông phổ thông bao gồm quyền biểu quyết, dự họp đại hội cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, nhưng không được chuyển nhượng cổ phiếu đó cho người khác.
4. Hiệu ứng công ty quy mô nhỏ (Small Firm Effect):
– Khái niệm hiệu ứng công ty quy mô nhỏ:
Hiệu ứng công ty quy mô nhỏ trong tiếng Anh là Small Firm Effect.
Hiệu ứng công ty quy mô nhỏ thực chất chính là một giả thuyết cho rằng việc sở hữu các công ty nhỏ hơn hoặc các công ty có vốn hóa thị trường nhỏ sẽ hoạt động tốt hơn các công ty lớn hơn. Các công ty giao dịch công khai được chia thành 3 loại lớn:
+ Công ty có vốn hóa lớn (trên 10 tỉ đô la).
+ Các công ty có vốn hóa trung bình (2 – 10 tỉ đô la).
+ Và công ty có vốn hóa nhỏ (dưới 2 tỉ đô la).
Phần lớn các công ty có vốn hóa thị trường nhỏ là các công ty khởi nghiệp hoặc các công ty non trẻ có tiền năng phát triển cao. Trong nhóm các công ty có vốn hóa thị trường nhỏ có hai nhánh nhỏ khác là công ty có vốn hóa thị trường rất nhỏ (từ 50 triệu đến 2 tỉ đô la) và công ty có vốn hóa thị trường siêu nhỏ (dưới 50 triệu đô la).
– Ý nghĩa hiệu ứng công ty quy mô nhỏ:
Sự bất thường của thị trường trong hiệu ứng công ty qui mô nhỏ là một yếu tố được sử dụng để giải thích lợi nhuận vượt trội trong Mô hình ba yếu tố của Gene Fama và Kennet. Trong đó, với ba yếu tố là lợi nhuận thị trường, các công ty có giá trị sổ sách trên giá trị thị trường cao và vốn hóa cổ phiếu nhỏ.
– Nội dung về hiệu ứng công ty quy mô nhỏ:
Giả thuyết về hiệu ứng công ty quy mô nhỏ là các công ty nhỏ hơn thì sẽ đạt được cơ hội tăng trưởng nhiều hơn so với các công ty lớn hơn. Các công ty có vốn hoá thị trường nhỏ thường có môi trường doanh nghiệp dễ thay đổi và dễ sửa chữa các vấn đề hơn.
Cuối cùng, các cổ phiếu có vốn hoá nhỏ thì thông thường có giá thấp hơn, cũng có nghĩa là giá trị của các cổ phiếu có vốn hoá thị trường lớn có xu hướng cao hơn.