Trên thực tế chắc hẳn chúng ta đã nghe rất nhiều về các lí thuyết kinh doanh theo đó chúng ta có thể thấy với các loại hiệu ứng khác nhau trong kinh doanh sẽ đem lại những quy luật về kinh tế rất có giá trị, trong đó chúng ta có thể nói đến lí thuyết về hiệu ứng chốt hãm ngược.
Mục lục bài viết
1. Hiệu ứng chốt hãm ngược là gì?
Chắc hẳn chúng ta đã nghe rất nhiều về loại hiệu ứng răng cóc tồn tại trong nhiều lĩnh vực của kinh tế học, đáng chú ý nhất là trong tiêu dùng, lạm phát và tiền lương. Ví dụ trong tiêu dùng, người ta cho rằng khi thu nhập của hộ gia đình giảm, họ tìm mọi cách để duy trì tiêu dùng ở mức cao nhất trước đó, Điều này hàm ý người ta phải sử dụng tiền tiết kiệm hoặc vay nợ để duy trì mức chỉ tiêu cho tiêu dùng trước đây. Theo đó nên chúng ta thấy khi thu nhập tăng trở lại, các hộ gia đình sẽ tiến tới mức tiêu dùng cao hon. Vì vậy, hàm tiêu dùng được coi là không thể đảo ngược.
Hiệu ứng chốt hãm ngược trong tiếng Anh là Ratchet Effect.
Như vậy ta hiểu về hiệu ứng chốt hãm ngược đây thực chất là một lí thuyết của Keynes cho rằng một khi giá đã tăng theo mức tăng của tổng cầu, thì chúng luôn luôn không đảo ngược khi nhu cầu đó giảm.
2. Ảnh hưởng của Hiệu ứng chốt hãm ngược:
Ảnh hưởng của hiệu ứng chốt hảm ngược này rất mạnh, hiệu ứng chốt hãm ngược này dưa ra các quan điểm để nói về sự gia tăng trong xu hướng tự tồn tại của sản xuất hoặc giá cả. Trường hợp nếu năng lực sản xuất đã được thêm vào hoặc giá cả đã được nâng lên thì rất khó để đảo ngược những thay đổi này bởi vì mọi người bị ảnh hưởng bởi mức sản xuất cao nhất trước đó.
Như vậy nên chúng ta thấy đối với hiệu ứng chốt hãm ngược lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm của Alan Peacock và Jack Wiseman sự tăng trưởng của chi tiêu công ở Vương quốc Anh. Với các nhà kinh tế như Peacock và Wiseman họ đã cho rằng thời kì khủng hoảng, chi tiêu công tăng lên giống như kích thước của chiếc cờ lê bánh cóc và vấn đề chi tiêu công là vấn đề mà Chính phủ và các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm. Theo đó họ đã đưa ra các bài nghiên cứu phân tích tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia. Theo như các dữ liệu số ta thấy được tổng chi tiêu công, chi tiêu công cho y tế, cho an ninh quốc phòng có tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế và chi tiêu công cho giáo dục tác động ngược chiều. Ngoài ra, trong quá trình phân tích, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy lực lượng lao động, đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động cùng chiều lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát, độ mở nền kinh tế tác động ngược chiều.
Chi tiêu công phản ánh các chính sách của chính phủ, cung cấp nguồn lực tài chính cho việc thực thi các chính sách đó. Đặc trưng của chi tiêu công là tính chất không hoàn trả hoặc không hoàn trả trực tiếp, thể hiện ở chỗ kết quả của chi tiêu công không tương ứng với khoản chi cả về số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm. Tương tự như vậy, chính phủ cũng gặp khó khăn trong việc đẩy lùi các tổ chức quan liêu lớn được thành lập từ thời kì đầu nhằm đáp ứng các nhu cầu tạm thời trong một giai đoạn, chẳng hạn như trong thời kì xung đột vũ trang hay khủng hoảng kinh tế.
Hiệu ứng chốt hãm ngược ở các thế hệ chính quyền cũng tương tự như kinh nghiệm ở các doanh nghiệp lớn đó là tăng thêm vô số các tầng lớp quan liêu để hỗ trợ cho một loạt các sản phẩm, dịch vụ và cơ sở hạ tầng lớn hơn, phức tạp hơn, để chu cấp cho tất cả.
Hiệu ứng chốt hãm ngược cũng có thể tác động đến các khoản đầu tư vốn của công ty qui mô lớn. Ví dụ, trong ngành công nghiệp ô tô, sự cạnh tranh thúc đẩy các công ty liên tục tạo ra các tính năng mới cho sản phẩm của họ. Điều này đòi hỏi đầu tư bổ sung vào máy móc mới hoặc một kiểu công nhân lành nghề khác, dẫn đến làm tăng chi phí lao động.
Khi một công ty ô tô đã thực hiện các khoản đầu tư và thêm các tính năng này, việc thu hẹp qui mô sản xuất trở nên khó khăn. Công ty không thể lãng phí đầu tư của họ vào vốn vật chất cần thiết cho việc nâng cấp hoặc vốn nhân lực dưới dạng công nhân mới.
Các nguyên tắc tương tự áp dụng cho hiệu ứng chốt hãm ngược từ góc độ người tiêu dùng: vì kì vọng tăng lên làm gia tăng quá trình tiêu thụ. Ví dụ: Nếu một công ty đã sản xuất nước khoáng là 20 ounce trong vòng 10 năm mà sau đó giảm dung tích chai nước khoáng xuống 16 ounce thì người tiêu dùng có thể cảm thấy bị lừa gạt ngay cả khi có sự điều chỉnh giảm giá tương ứng.
Như vậy với hiệu ứng chốt hãm ngược cũng áp dụng cho tiền lương và tăng lương. Người lao động sẽ hiếm khi chấp nhận giảm lương, nhưng họ cũng có thể không hài lòng với việc tăng lương mà họ cho là không đủ. Nếu một người quản lí nhận được mức tăng lương 10% trong một năm và mức tăng lương 5% trong năm tiếp theo, anh ta có thể cảm thấy rằng mức tăng mới là không đủ mặc dù anh ta vẫn được tăng lương.
Theo các nội dung đã đề cập như trên thì với hiệu ứng chốt hãm ngược là trong một số tình huống mọi người đã quen với sự tăng trưởng liên tục ngay cả trong thị trường đã bão hòa. Theo đó nên nếu thị trường có thể không còn thỏa mãn mong muốn và nhu cầu của người tiêu dùng nữa, làm cản trở mục đích bao hàm của nền kinh tế.
3. Ví dụ về hiệu ứng bánh cóc:
Đểu hiểu rõ hơn thì nếu chúng ta giả thuyết với hiệu ứng bánh cóc đề cập đến sự leo thang trong sản xuất hay sự lao thang với giá có xu hướng tự duy trì. Một khi năng lực sản xuất đã được thêm vào hoặc giá đã được nâng lên, rất khó để đảo ngược những thay đổi này bởi vì mọi người bị ảnh hưởng bởi mức sản xuất tốt nhất hoặc cao nhất trước đó.
Trong sản xuất
Một số xu hướng kinh tế có xu hướng tự duy trì, đặc biệt là trong sản xuất. Ví dụ: nếu một cửa hàng có doanh số trì trệ trong một thời gian, thông qua một số thay đổi của công ty như chiến lược quản lý mới, sửa chữa nhân viên hoặc các chương trình khuyến khích tốt hơn và cửa hàng kiếm được doanh thu lớn hơn trước đây, cửa hàng sẽ gặp khó khăn biện minh cho việc sản xuất ít hơn. Vì các công ty luôn tìm kiếm sự tăng trưởng và lợi nhuận cao hơn nên khó có thể mở rộng sản xuất trở lại.
Trong việc đầu tư vốn của một công ty
Hiệu ứng này cũng có thể tác động đến đầu tư vốn của các công ty quy mô lớn điển hinh có thể nhắc tới trong ngành công nghiệp ô tô, cạnh tranh khiến các công ty liên tục tạo ra các tính năng mới cho xe của họ. Điều này đòi hỏi đầu tư thêm vào máy móc mới hoặc công nhân lành nghề, làm tăng chi phí lao động. Một khi một công ty ô tô đã thực hiện các khoản đầu tư này và thêm các tính năng này, sẽ trở nên khó khăn trong việc tăng quy mô sản xuất. Công ty không thể lãng phí đầu tư của họ vào vốn cần thiết cho việc nâng cấp hoặc vốn nhân lực dưới hình thức công nhân mới.
Đối với tiền lương
Đối với tiền lương chúng ta ứng dụng hiệu ứng bánh cóc cũng áp dụng tiền l với lương thì người lao động sẽ hiếm khi (nếu bao giờ) chấp nhận giảm lương, nhưng họ cũng có thể không hài lòng với việc tăng lương nếu họ coi là không đủ. Nếu một người quản lý nhận được mức tăng lương 10% một năm và tăng 5% trong năm tới, anh ta có thể cảm thấy rằng mức tăng mới là không đủ mặc dù anh ta vẫn nhận được một khoản tăng lương.
Thông qua ví dụ này giúp chúng ta hiểu thêm về sự nguy hiểm của hiệu ứng bánh cóc – trong trường hợp của người quản lý, có thể không có đủ doanh nghiệp mới để cho phép tăng thêm, nhưng người quản lý vẫn có thể cảm thấy hơi nhỏ.
Như vậy chúng ta đưa ra kết luận rẳng trong những tình huống nhất định, mọi người trở nên quen với sự tăng trưởng liên tục ngay cả ở những thị trường có thể bão hòa. Theo đó nên thị trường có thể không còn đáp ứng mong muốn và nhu cầu của người tiêu dùng, đánh bại mục đích bao quát của kinh tế học.