Hiện tượng quay vòng trong biểu quyết là gì? Đặc điểm hiện tượng quay vòng trong biểu quyết? Nội dung hiện tượng quay vòng trong biểu quyết? Lợi ích của lựa chọn công cộng là gì?
Hiện nay đối với việc lấy ý kiến của số đông hững người để từ đó xem xét xem ý kiến của mọi người về một vấn đề cụ thể nào đó có thật sự phù hợp và được sự đồng tình hay không người ta thường dùng tới hình thức biểu quyết, tùy theo mức độ và tính chất, đặc điểm của từng loại mà biểu quyết ít người hoặc trong một cộng đồng, với hình thức này hiện nay có hiện tượng quay vòng trong biểu quyết tức là số ít nhóm đồng ý nhưng số đông lại không như vậy.
Mục lục bài viết
1. Hiện tượng quay vòng trong biểu quyết là gì?
Chắc hẳn chúng ta đã quá quen thuộc đối với hiện tượng quay vòng trong biểu quyết cụ thể nó đề cập đến trường hợp lựa chọn của các cá nhân đều nhất quán, nhưng của cả cộng đồng lại không như vậy.
2. Đặc điểm của hiện tượng quay vòng trong biểu quyết:
– Nguyên tắc nhất trí tuyệt đối là một nguyên tắc qui định: một quyết định chỉ được thông qua khi và chỉ khi có sự thống nhất (đồng ý) của tất cẩ các thành viên trong một cộng đồng nào đó.
– Nguyên tắc biểu quyết theo đa số (hay nguyên tắc biểu quyết theo đa số tương đối) là nguyên tắc qui định: một vấn đề chỉ được thông qua khi và chỉ khi có hơn một nửa số người bỏ phiếu cùng nhất trí.
– Nguyên tắc biểu quyết theo đa số tuyệt đối yêu cầu: một vấn đề chỉ được thông qua khi và chỉ khi được sự nhất trí của nhiều hơn mức đa số tương đối, chẳng hạn phải đạt được hai phần ba số phiếu thuận.
Khác với lựa chọn cá nhân, lựa chọn công cộng có các đặc điểm sau:
– Nếu trong lựa chọn cá nhân, mỗi người tự đưa ra quyết định thì trong lựa chọn công cộng, quyết định của cá nhân lại được kết hợp lại trong một quyết định tập thể.
– Nếu trong lựa chọn cá nhân, quyết định của một người chỉ có tác dụng đối với bản thân thì trong lựa chọn công cộng, quyết định tập thể mang tính chất cưỡng chế, bắt buộc mọi người phải tuân thủ.
3. Nội dung của hiện tượng quay vòng trong biểu quyết:
Biểu quyết theo đa số không phải lúc nào cũng đưa đến một kết cục rõ ràng và nhất quán. Nhiều trường hợp tỏ ra không thành công. Để minh họa điều này, chúng ta quay trở lại xem xét ví dụ trên như sau
Một cộng đồng có ba cử tri (cử tri 1, cử tri 2, cử tri 3) và họ phải lựa chọn ba mức chi tiêu cho quốc phòng (A là mức chi tiêu ít nhất, B là mức chi tiêu trung bình, C là mức chi tiêu lớn nhất), với giả thiết ý thích của các cử tri được thể hiện ở biểu 5-2 sau đây:
Lựa chọn | Cử tri 1 | Cử tri 2 | Cử tri 3 |
Ưu tiên 1 | A | C | B |
Ưu tiên 2 | B | A | C |
Ưu tiên 3 | C | B | A |
Tương tự như trên, ta tiến hành bỏ phiếu cho từng cặp phương án: Nếu lựa chọn giữa phương án A và B thì A sẽ thắng với tỉ lệ phiếu 2/1. Nếu biểu quyết giữa phương án B và C thì phương án B sẽ thắng cùng tỉ số.
Nếu biểu quyết giữa phương án C và A thì C thắng với số phiếu như vậy. Đây là một kết cục phi logic vì nếu A đã thắng B và B đã thắng C thì theo logic thông thường phương án A sẽ là phương án thắng cuối cùng theo nguyên tắc đa số.
Những kết cục trong lần bỏ phiếu thứ ba lại hoàn toàn ngược lại. Mặc dù lựa chọn của các cá nhân đều nhất quán, nhưng của cả cộng đồng lại không như vậy. Hiện tượng này gọi là nghịch lí biểu quyết hay biểu quyết quay vòng.
Trở lại ví dụ này, nếu lựa chọn đầu tiên là giữa B và C, sau đó phương án thắng (B) được tiếp tục đấu với A thì A sẽ là kết quả lựa chọn cuối cùng.
Điều này có nghĩa là kết cục cuối cùng hoàn toàn phụ thuộc vào trật tự tiến hành bỏ phiếu. Ai có khả năng kiểm soát được trật tự bỏ phiếu thì người đó chi phối kết quả cuối cùng.
4. Lợi ích của lựa chọn công cộng là gì?
Hiện nay chúng ta có thể thấy với thuyết lựa chọn công cộng ra đời để được sử dụng với mục đích để các quyết định chính trị mang đến kết quả mâu thuẫn với lợi ích chung của người dân.
Ví dụ, cụ thể về lí thuyết này đó là có rất nhiều nhóm vận động khác nhau như chúng ta có thể thấy không phải mong muốn của một nền dân chủ nói chung và bên cạnh đó có lý do để các chính trị gia ủng hộ các dự án này. Điều này làm họ cảm thấy bản thân quyền lực và có tầm ảnh hưởng.
Bên cạnh đó cáclợi ích về mặt tài chính từ các cuộc vận động hành lang. Dự án có thể mang đến lợi ích cho khu vực bầu cử địa phương của vị chính trị gia đó, tăng phiếu bầu của khu vực hoặc tiềm lực tài chính cho chiến dịch. Chính trị gia tốn ít hoặc không mất chi phí để đạt được những lợi ích này, vì anh ta đang tiêu tiền công. Những người vận động hành lang quan tâm đặc biệt cũng đang hành động theo lý trí.
Họ có thể nhận được sự ủng hộ của chính phủ trị giá hàng triệu hoặc hàng tỷ cho các khoản đầu tư tương đối nhỏ. Họ phải đối mặt với nguy cơ thua cuộc trước các đối thủ cạnh tranh nếu họ không tìm kiếm những ưu đãi này. Người nộp thuế cũng đang cư xử hợp lý. Chi phí đánh bại bất kỳ một sự cho đi nào của chính phủ là rất cao, trong khi lợi ích cho người nộp thuế cá nhân là rất nhỏ. Mỗi người dân chỉ trả một vài đồng xu hoặc một vài đô la cho bất kỳ sự ưu ái nào của chính phủ, trong khi chi phí kết thúc sự ưu ái đó sẽ cao hơn nhiều lần.
Mọi người tham gia đều có những khuyến khích hợp lý để làm chính xác những gì họ đang làm, mặc dù mong muốn của khu vực bầu cử chung là ngược lại. Chi phí được khuếch tán, trong khi lợi ích được tập trung. Tiếng nói của các nhóm thiểu số có nhiều âm thanh để đạt được được nghe qua những tiếng nói của những người đa số thờ ơ với rất ít để mất cá nhân. Tuy nhiên, quan niệm rằng các nhóm có lợi ích tập trung sẽ thống trị chính trị là không đầy đủ vì nó chỉ là một nửa của trạng thái cân bằng chính trị. Một cái gì đó phải kích động những con mồi để chống lại ngay cả những lợi ích tập trung có tổ chức tốt nhất.
Nếu như theo dõi thì chúng ta thây có một bài đã từng viết về các nhóm lợi ích Gary Becker thông qua đó đã đưa ra quan điểm và đã xác định lực lượng đối kháng này là tổn thất nặng nề từ việc săn mồi. Theo như những gì ông đưa ra thì đã xuất hiện sự giới hạn cái được gọi là trường kinh tế chính trị Chicago và nó đã mâu thuẫn gay gắt với cái gọi là phe Virginia của sự lựa chọn công cộng do khẳng định rằng chính trị sẽ có xu hướng hiệu quả do tổn thất nặng nề phi tuyến tính và do để tuyên bố rằng hiệu quả chính trị làm cho lời khuyên chính sách không liên quan.
Mặt khác, các lợi ích được thụ hưởng và chia sẻ bởi một nhóm lợi ích đặc biệt nhỏ và do đó nhóm này luôn có động lực mạnh mẽ để duy trì chính sách gây tổn thất này bằng cách vận động hành lang. Do sự thiếu hiểu biết hợp lý, đại đa số cử tri sẽ không nhận thức được nỗ lực này; trên thực tế, mặc dù các cử tri có thể nhận thức được về các nỗ lực vận động hành lang nhằm thu lại các lợi ích đặc biệt, điều này chỉ có thể chọn cho các chính sách thậm chí khó đánh giá hơn bởi công chúng, thay vì cải thiện hiệu quả chung của chúng. Ngay cả khi công chúng có thể đánh giá các đề xuất chính sách một cách hiệu quả, họ sẽ thấy không thể tham gia vào hành động tập thể để bảo vệ lợi ích lan tỏa của họ. Do đó, lý thuyết gia kỳ vọng rằng nhiều lợi ích đặc biệt sẽ có thể vận động hành lang thành công cho các chính sách không hiệu quả khác nhau.
Như vậy từ bài viết chúng tôi cung cấp như trên ta thấy tất cả có trong lý thuyết lựa chọn công cộng, những viễn cảnh về các chính sách kém hiệu quả của chính phủ được gọi là thất bại của chính phủ – một thuật ngữ gần giống với thất bại thị trường từ lý thuyết kinh tế học phúc lợi trước đó.Theo đó ta thấy Hiện tượng quay vòng trong biểu quyết là thuật ngữ và khái niệ để chỉ sự lựa chọn công cộng và để nghiên cứu về Hiện tượng quay vòng trong biểu quyết chúng ta nên có kiến thức căn bản về sự lựa chọn công cộng này.