Hen tim là một tình trạng xảy ra với sức khỏe tim bị tác động. Từ đó mang đến các biểu hiện trong khó khăn của hoạt động hô hấp. Hen tim là một dấu hiệu khác với các tình trạng hen hay hen phế quản. Cùng bài viết tìm hiểu hen tim là gì? Biểu hiện và đối tượng dễ mắc hen tim?
Mục lục bài viết
1. Hen tim là gì?
Hen tim là tình trạng xảy ra với tính chất khó thở. Được thể hiện với các sức khỏe báo động đối với tim mạch. Biểu hiện với các triệu chứng như khò khè, khó thở và khó khăn trong thực hiện hô hấp. Xuất hiện đột ngột trong thể suy tim sung huyết. Dẫn đến khó khăn trong các khả năng thở và hô hấp thông thường. Hen tim không phải hen phế quản. Cơ chế hình thành cũng như các tính chất tác động, gây ra ảnh hưởng cho sức khỏe là khác biệt.
Hen tim xảy ra với sức khỏe tim. Điều này khiến cho tính chất làm việc của cơ quan trung tâm này không được đảm bảo. Tác động đến tính chất trong khả năng hô hấp để duy trì quá trình trao đổi chất. Các tính chất nghiêm trọng cần được đánh giá để tìm kiếm phương pháp xử lý kịp thời.
Hen tim không phải là một loại hen thông thường. Khi mà các bộ phận trong hoạt động của hệ hô hấp có những báo động. Mà nó gây ra bởi suy tim và bệnh lý gây suy giảm chức năng của tim. Tim mang đến chức năng hoạt động trung tâm của cơ thể con người. Từ đó đưa máu đi nuôi cơ thể. Cần đảm bảo có một trái tim khỏe đẻ có được sức khỏe tốt.
Diễn biến của bệnh nặng hơn có thể xảy ra nếu không có sự can thiệp kịp thời. Điều này dẫn đến ứ dịch làm tim không thể bơm máu hiệu quả và các đường dẫn khí trở nên hẹp. Mang đến các chức năng không được đảm bảo. Máu không lên được não hoặc không đến được với tất cả các bộ phận trong cơ thể.
2. Nguyên nhân của hen tim:
Hen tim xuất hiện do ứ trệ tuần hoàn phổi. Và có hay không hội chứng phù phổi cấp. Từ đó mang đến sự tác động và biểu hiện ra bên ngoài cho tính chất của hô hấp không được đảm bảo. Là triệu chứng, đồng thời phản ánh những dấu hiệu cho một trái tim không còn khỏe.
Ở người bình thường, tim phải đưa máu lên phổi để trao đổi oxy. Do vậy mà hoạt động hô hấp mang đến các ý nghĩa không thể thiếu. Một chức năng không được tiến hành khiến cho hoạt động chung không được thực hiện. Và biểu hiện là khò khè, khó thở. Với chức năng kết hợp của các bộ phận, sau đó máu giàu oxy từ phổi về tim trái. Tim trái co bóp đưa máu giàu oxy đi khắp cơ thể. Hoạt động này được thực hiện với chức năng và vai trò quan trọng của tim, phổi. Duy trì cho sự sống của con người.
– Cơ chế của nguyên nhân được xác định là do:
Trên bệnh nhân suy tim trái, tim trái không đủ khả năng bơm hết lượng máu từ phổi đưa về. Các chức năng không được đảm bảo thực hiện. Và khó khăn đối với duy trì nhịp thở, lấy oxi hay thực hiện trao đổi chất. Từ đó mà tim không thực hiện được hoạt động cung cấp máu đi khắp cơ thể.
Gây nên tình trạng “ứ máu giật lùi”, bởi máu không được lưu thông và dồn ở xung quanh. Áp lực dồn trở lại từ tim trái tới phổi. Khi nhu cầu đưa máu đến phổi rồi thực hiện truyền máu, bơm máu gặp vấn đề. Gây nên co thắt phế quản, làm việc nhưng không thực hiện được chức năng. Hậu quả là đường thông khí của phổi bị hẹp lại. Dẫn đến không có oxi. Từ đó mà lượng khí cần thiết của cơ thể không được đảm bảo có đủ. Dẫn đến các tình trạng đối với khò khè hay khó thở.
Như vậy bản chất của hen tim khác hoàn toàn hen phế quản. Khi các cơ chế được thực hiện trong chức năng hoạt động của tim. Bởi trong hen phế quản, sự co thắt phế quản là do tình trạng viêm mạn tính gây hẹp đường thở. Với chức năng của quá trình hô hấp không được đảm bảo. Trong khi hen tim được xác định với cơ chế của nguyên nhân như trên.
Ngoài ra các bệnh lý về van tim cũng ảnh hưởng tới sự lưu chuyển của dòng máu. Các tính chất của van không đảm bảo trong chức năng. Từ đó dẫn đến các công việc được thực hiện không có hiệu quả. Lâu dần các tính chất nghiêm trọng hình thành. Do đó cũng có thể gây hen tim.
Hen tim tiếng Anh là Heart Asthma.
3. Biểu hiện của bệnh hen tim:
Các dấu hiệu này thường xuất hiện trong trường hợp cụ thể. Với các áp lực đối với nhu cầu thở và đảm bảo cung cấp oxi cho cơ thể. Xảy ra khi gắng sức, làm việc nặng nhọc (như leo cầu thang, đi bộ quãng đường dài…). Hoặc có thể xuất hiện về nửa đêm gần sáng. Phản ánh với các nhu cầu đối với lượng oxi cần nhiều hơn bình thường để cung cấp cho cơ thể. Và khó khăn để thực hiện các chức năng đó.
Triệu chứng được nhận biết với các phản ánh trong tình trạng bộ phận cơ thể. Phù ở mắt cá chân, đi tiểu ít, gan to là những triệu chứng dễ dàng phát hiện nhất. Do các hiệu quả không được thực hiện đối với chức năng bơm máu của tim. Tính chất đó làm cho các cơ quan khác lâu dần cũng bị tác động và ảnh hưởng về chức năng. Và khi có các dấu hiệu này thì tiên lượng bệnh nhân rất nặng. Phản ánh với các triệu chứng và mức độ nghiêm trọng đến các chức năng khác rất cao.
– Dấu hiệu khi khám bệnh:
Ngoài ra khi thăm khám ta có thể có các hoạt động khám chuyên sâu. Từ đó mà thấy các dấu hiệu tại tim gây nên suy tim. Như tiếng thổi do hẹp hở van hai lá, thông liên thất… Hoạt động này thực hiện với các thăm khám đối với sức khỏe tim mạch. Từ đó mà có thể thấy được các phản ánh, biểu hiện chính xác cho các thời gian đầu của dấu hiệu bệnh.
Nghe phổi có tiếng ran rít, ran ngáy. Và trong cơn phù phổi cấp có thể thấy tiếng ran dâng trào từ đáy phổi lên đỉnh phổi. Các hiện tượng này được gọi là dấu hiệu “thủy triều dâng”. Các âm thanh này mang đến phản ánh đối với tính chất hoạt động có hiệu quả hay không. Đồng thời đánh giá được các chức năng có đang đảm bảo tốt không.
Dấu hiệu cụ thể:
Dấu hiệu và triệu chứng của hen tim có thể thay đổi tùy từng người. Phản ánh với các bệnh lý nền. Cũng như đánh giá với các tính chất nghiêm trọng được thể hiện là khác nhau. Có thể xuất hiện sau khi tập luyện, làm việc gắng sức. Như leo cầu thang, đi bộ đường dài,… hoặc trong khi ngủ. Là khi không đảm bảo được hoạt động hô hấp để tiến hành trao đổi chất. Bao gồm:
– Tinh thần hoảng loạn. Các chức năng đối với nhu cầu hô hấp không được hiệu quả. Do các hoảng loạn dẫn đến nhịp thở khác và không ổn định. Điều này dẫn đến các chức năng của tim phải được điều chỉnh với cường độ và tính chất làm việc khác đi. Tương ứng với tính chất của hô hấp, dẫn đến các phản ánh thực tế với tình trạng tạo ra.
– Khó thở, thở nhanh nông, thở dốc. Các khó khăn đối với nhu cầu và chức năng của các cơ quan tham gia vào quá trình hô hấp. Có thể xuất hiện khò khè hoặc không. Nếu đang ngủ bệnh nhân phải ngồi ngay dậy vì không thở được. Khi mà khí oxi không được bơm vào để tham gia đẩy máu lên não và các bộ phận khác.
– Tăng nhịp tim, tăng huyết áp. Là các tính chất trong hoạt động và cường độ hoạt động của tim. Gây ra các bắt buộc đối với tính chất và cường độ cần phải thay đổi để tham gia vào chức năng của nó.
– Vã mồ hôi, da tím tái, lạnh. Các biểu hiện này có thể không thấy rõ với vấn đề đến từ sức khỏe của tim. Nhưng đây cũng là một trong các triệu chứng được phản ánh với người hen tim.
– Phù mắt cá chân, gan to, tiểu ít. Khi các chức năng của gan, thận cũng không được đảm bảo. Việc bơm máu đi nuôi cơ thể không được diễn ra vơi hiệu quả cần thiết của nó. Điều này tác động đến tính chất của quá trình tim mạch nói chung.
4. Đối tượng dễ mắc hen tim:
– Người cao tuổi:
Hen tim thường xuất hiện ở những bệnh nhân cao tuổi mắc suy tim. Vì các chức năng không được đảm bảo khỏe mạnh. Đối với người già, khả năng co bóp tống máu của cơ tim không còn tốt. Gây ra các hiệu quả không được đảm bảo thực hiện lâu dài. Khi bị suy tim thì chức năng lại càng yếu hơn. Mang đến các biểu hiện và sự khó chịu nhiều hơn với các tình trạng khác nhau. Và máu rất dễ bị ứ trệ tại tuần hoàn phổi gây nên hen tim.
Do đó, những người cao tuổi mắc bệnh suy tim nên đặc biệt chú ý khi xuất hiện ho, khò khè, khó thở. Khi cường độ và tính chất của các phản ứng này tăng lên, cần đến cơ sở y tế uy tín trong khám chữa bệnh. Để được bác sĩ chuyên khoa thăm khám và điều trị.
– Người mắc bệnh tim mạch:
Hoặc xuất hiện với người có bệnh tim mạch. Từ nguyên nhân gây nên hen tim, có thể dễ dàng nhận ra hen tim sẽ xuất hiện trên những bệnh nhân đã có sẵn bệnh lý tim mạch. Khi mà các chất lượng thực hiện của các chức năng là không đảm bảo. Như bệnh suy tim trái, hở hoặc hẹp van động mạch chủ, hẹp van hai lá,… Các bệnh lý này sẽ tác động lên khả năng hoạt động và thực hiện các chức năng của tim. Bởi tim và các thành phần khác tham gia vào quá trình truyền máu đang không khỏe mạnh.