Hệ thống ngân hàng song hành là hệ thống ngân hàng tồn tại ở Hoa kì. Với các ngân hàng liên kết với nhau trong một hệ thống. Theo đó tính chất song hành cho phép các ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn ở các tiểu bang. Cùng bài viết tìm hiểu thêm về hệ thống ngân hàng song hành là gì? Hệ thống ngân hàng song hành ngày nay.
Mục lục bài viết
1. Hệ thống ngân hàng song hành là gì?
Hệ thống ngân hàng song hành trong tiếng Anh là Dual Banking System.
Hệ thống ngân hàng song hành là hệ thống ngân hàng tồn tại ở Hoa Kỳ, Với tính chất chung khi các ngân hàng vẫn đảm bảo hoạt động trong hệ thống. Tuy nhiên, lại có sự phân chia thành các ngân hành tiểu bang và ngân hàng quốc gia. Được hiểu với sự phân chia theo tính chất xác định phạm vi lãnh thổ. Tại đó các ngân hàng tiểu bang và ngân hàng quốc gia được đặt quyền và giám sát ở các cấp độ khác nhau. Ngân hàng tiểu bang có phạm vi quản lý riêng. Do đó hình thành nhiều ngân hàng với các tiểu bang khác nhau. Cùng với ngân hàng quốc gia phát triển thành một hệ thống chung.
Trong tính chất gọi tên đó, vẫn phản ánh sự đồng bộ trong quản lý hay tổ chức. Khi các ngân hàng này đều thuộc trong khối ngân hàng tồn tại ở Hoa Kỳ. Hoạt động trong nhà nước với các quyền hạn và chức năng của ngân hàng nhà nước. Theo hệ thống ngân hàng song hành, các ngân hàng quốc gia được đặt quyền và điều chỉnh theo luật và tiêu chuẩn liên bang. Được giám sát bởi một cơ quan liên bang nơi đặt ngân hàng. Với tính chất của ngân hàng quốc gia được đặt ở các tiểu bang phục vụ cho nhu cầu và hoạt động của người dân trong tiểu bang. Chính quyền tiểu bang có những quản lý với phạm vi cơ sở.
Tính chất ngân hàng song hành.
Nó phản ánh tính chất đồng bộ và phân công quyền lực. Với chính quyền trung ương nắm giữ các tính chất quản lý cao nhất. Việc trao các quyền hạn cho chính quyền tiểu bang đảm bảo các quản lý hiệu quả ở từng phạm vi nhỏ. Mang đến các áp dụng phù hợp cho từng tiểu bang dựa trên yếu tố thực tế. Như phục vụ các nhu cầu khác nhau của khách hàng, phù hợp với các đòi hỏi trên thực tế. Các khả năng đáp ứng dịch vu của ngân hàng,.. Các điểm riêng biệt này giúp các ngân hàng tìm kiếm và khai thác tốt hơn các lợi thế và tiềm năng ở từng địa phương khác nhau.
Luật được ban hành cho hệ thống ngân hàng hiện đại được cho là Đạo luật Dự trữ Liên bang năm 1913, mà Tổng thống Wilson đã kí. Với tính chất phổ biến pháp luật về sự ra đời và hoạt động của các ngân hàng tiểu bang. Phối hợp cùng với ngân hàng quốc gia trong phát triển chung hệ thống ngân hàng trên toàn đất nước. Khi đó việc xây dựng hệ thống ngân hàng song hành đạt được hiệu quả và giá trị. Với luật này, Quốc hội đã thành lập 12 Ngân hàng quận để đáp ứng nhu cầu ngân hàng của đất nước. Cũng như mang đến các phát triển tốt hơn cho việc các tiểu bang có quyền quản lý, tổ chức và điều hành.
2. Hoàn cảnh ra đời hệ thống ngân hàng song hành:
– Các áp lực thúc đẩy ra đời các ngân hàng tiểu bang.
Hệ thống ngân hàng song hành ở Hoa Kỳ đã ra đời trong thời kì Nội chiến. Khi các hoạt động tiền tệ cần thiết được huy động ở các tiểu bang nhất định. Salmon Chase, Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ của Tổng thống Abraham Lincoln, người đã nỗ lực tạo ra Đạo luật Ngân hàng Quốc gia năm 1863. Với mục tiêu chính là quyên góp tiền cho miền Bắc để đánh bại miền Nam. Khi đó, các ngân hàng ở Miền Bắc được huy động quyên góp tiền. Trong khi ngân hàng thuộc hoạt động chung của quốc gia. Nó mang đến các tư duy trong hình thành các ngân hàng tiểu bang để dễ dàng huy động từ các tiểu bang đó.
Điều này đã được thực hiện thông qua việc phát hành một loại tiền tệ chung ở cấp quốc gia. Thực hiện sự thống nhất cho tiền tệ để các giá trị được phép lưu hành. Điều này mang đến ý nghĩa cho cuộc chi viện hay quyên góp. Cho đến thời điểm đó, tiền giấy nhà nước đã được đưa vào trong lưu thông. Phản ánh tính chất chung trong giá trị tiền tệ. Đạo luật năm 1863 đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng tại các bang. Các nhà lập pháp đã tiến thêm một bước nữa trong năm sau. Bằng cách thông qua một đạo luật sửa đổi để đánh thuế vào việc phát hành tiền giấy nhà nước.
Sự tất yếu ra đời.
Các khó khăn và điều kiện đặt ra lớn mang đến các áp lực trong nghĩa vụ. Số lượng ngân hàng tại các bang giảm đáng kể. Trong khi các yêu cầu trong giải quyết nhu cầu tài chính vẫn phản ánh quá mạnh mẽ. Để bù lại, là sự đổi mới quan trọng của các ngân hàng – tiền gửi không kì hạn. Vừa mang đến sự đổi mới cho bước ngoặt cần thiết. Vừa tạo ra một dịch vụ đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu người dân tại các bang. Sự ra đời này đánh dấu bước mới để đối phó với mối đe dọa hiện hữu đó.
Việc này đã dẫn đến sự trở lại mạnh mẽ về số lượng các ngân hàng tại các bang đến mức trong vòng 10 năm kể từ lúc đạo luật thuế tiền giấy nhà nước được sửa đổi năm 1864. Nó là các tất yếu diễn ra khi nhu cầu quá cao. Các nghĩa vụ thực hiện quá nhiều khiến cho lợi ích của người dân không được đảm bảo. Kết quả phản ánh tốt sau khi các ngân hàng này ra đời. Ngân hàng tại các bang đã nắm giữ nhiều tiền gửi của khách hàng hơn ngân hàng quốc gia. Các thay đổi dẫn đến lợi thế nhất định cho hoạt động của ngân hàng. Cũng như mang đến các lợi thế cho khách hàng. Họ được đảm bảo thực hiện các nhu cầu với lợi ích lớn hơn.
3. Hệ thống ngân hàng song hành ngày nay:
Tính chất hệ thống.
Các đảm bảo trong tính chất chi phối hay thực hiện các dịch vụ độc lập được thể hiện. Mang đến các lợi ích được bảo đảm thực hiện trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Tính chất hệ thống mang đến sự phối hợp và hoạt động đồng bộ. Khi mà đây đều là các ngân hàng của chính quyền quốc gia mỹ. mang đến các chức năng hay dịch vụ cung cấp theo quy định của pháp luật. Các yếu tố trong phân chia quyền lực cùng với sự phối hợp và giám sát mang đến hiệu quả chung cho hoạt động của ngành ngân hàng.
Tính chất song hành.
Tính chất trong hoạt động của các ngân hàng có những phù hợp với đặc điểm tiểu bang. Bên cạnh các tính chất chung trong tổ chức, cần thiết sự phân công quyền lực.
Các ngân hàng quốc gia với chức năng và nhiệm vụ quản lý cấp trên. Cùng với các vai trò trong quản lý và phối hợp với các ngân hàng tiểu bang. Việc giám sát cũng được thực hiện mang đến các triển khai đồng bộ trong hệ thống ngân hàng.
Các ngân hàng tiểu bang mang đến các tiếp cận gần hơn và hiệu quả đối với từng tiểu bang khác nhau. Bên cạnh các tính chất chung trong tổ chức, cần thiết sự phân công quyền lực. Khi đó các ngân hàng tiểu bang có thể điều chỉnh nhằm phù hợp với nhu cầu khách hàng. Khai thác hiệu quả các nhu cầu của khách hàng.
4. Ý nghĩa của hệ thống ngân hàng song hành ngày nay:
Ngày nay, hệ thống ngân hàng song hành cho phép cùng tồn tại hai cấu trúc điều tiết khác nhau cho các ngân hàng tiểu bang và ngân hàng quốc gia. Điều này dẫn đến sự khác biệt trong cách tín dụng được quy định, giới hạn cho vay hợp pháp và các biến thể của quy định từ tiểu bang này sang tiểu bang khác. Đó là sự khác biệt phản ánh trong giá trị hoạt động cũng như hiệu quả khai thác khu vực. Nó mang đến các giá trị phản ánh khác nhau khi các tiêu bang tham gia vào kết nối.
Tiểu bang có hoạt động hiệu quả hơn phản ánh các tiềm năng cao hơn và có vị thế. Cũng như tầm quan trọng sẽ được phản ánh hiệu quả tốt hơn trong hoạt động chung của ngân hàng quốc gia.
Hiệu quả của hoạt động.
Cấu trúc song hành đã vượt qua thử thách của thời gian. Và hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý rằng nó là cần thiết cho một hệ thống ngân hàng lành mạnh và sôi động. Khi các phối hợp, phân chia và giám sát được thực hiện mang đến hiệu quả chung. Bên cạnh sự riêng biệt tạo ra giúp các ngân hàng tiểu bang cố gắng tìm kiếm các lợi ích nhiều hơn.
Các ngân hàng quốc gia cung cấp sự hiệu quả từ kinh tế quy mô (hay kinh tế bậc thang). Và đổi mới sản phẩm, dịch vụ có được từ việc áp dụng các nguồn lực lớn hơn. Mang đến sự phản ánh giá trị tốt hơn.
Mặt khác, các ngân hàng ở các bang nhanh nhẹn và linh hoạt hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng ở chính bang của họ. Các sản phẩm và dịch vụ tiên tiến của họ được phê duyệt kịp thời hơn bởi các cơ quan quản lí nhà nước. Có thể tới các ngân hàng tiểu bang khác nếu các ngân hàng này giúp khách hàng của họ gia tăng giá trị. Các ngân hàng có được hiệu quả trong hoạt động tốt hơn khi được nắm bắt các quyền hành độc lập.