Hệ thống chỉ tiêu thống kê trong doanh nghiệp là gì? Trong tiếng Anh Hệ thống chỉ tiêu thống kê được gọi là Statistical indicator system. Vai trò của hệ thống?
Khi nền kinh tế ngày một trở nên phát triển thì việc suất hiện nhiều hơn các chỉ tiêu để có thể biết được sự phát triển của một nền kinh tế của một xã hội hoặc một khu vực hay chỉ là một quốc gia nhất định. Mà để có thể thống kê được hết tất cả các chỉ số này không phải là một điều đơn giản, Bởi vì trong nền kinh tế thì nó bao gồm rất nhiều ngành nghề khác nhau và chỉ tiêu cũng được quy định khác nhau. Cũng chính vì nhu cầu thống kê các chỉ tiêu thống kế thì các nhà nghiên cứu đã đưa ra việc sử dụng Hệ thống chỉ tiêu thống kê.
Tuy nhiên đối với mỗi địa điểm khác nhau sẽ sử dụng chỉ tiêu thống kê khác nhau, do đó, Trong doanh nghiệp thì đã được quy định về việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu thống kê trong doanh nghiệp.
Mục lục bài viết
1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê trong doanh nghiệp là gì?
Trong tiếng Anh Hệ thống chỉ tiêu thống kê được gọi là Statistical indicator system.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê được xác định ở đây đó chính là danh mục các thông tin cần thu thập để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Trong Khoản 4 Điều 3 Luật Thống kê 2015, “Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu thống kê phản ánh các đặc điểm của hiện tượng kinh tế – xã hội.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê gồm danh mục và nội dung chỉ tiêu thống kê. Danh mục chỉ tiêu thống kê gồm mã số, nhóm, tên chỉ tiêu. Nội dung chỉ tiêu thống kê gồm khái niệm, phương pháp tính, phân tổ chủ yếu, kỳ công bố, nguồn số liệu của chỉ tiêu thống kê và cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp.”
Từ quy định vừa được nêu ra ở trên thì có thể thấy rằng đối với một hệ thống chỉ thiêu trong thống kê được các doanh nghiệp dùng để phản ánh các đặc điểm của hiện tượng kinh tế – xã hội trên thực tế. Từ hoạt động này mà có thể biết được trên thị trường thì nền kinh tế của một quốc gia đó phát triển như thế nào? Những yếu tố và chỉ tiêu nào của nền kinh tế là phát triển nhất. Cũng bpoiwr vì thế mà đa phần việc thống kee của các doanh nghiệp thường lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê trong doanh nghiệp để thực hiện hoạt động thống kê theo như quy định của pháp luật thống kê hiện hành.
2. Vai trò của hệ thống:
Trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành thì hệ thống chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp này bao gồm các thông tin đầu vào của doanh nghiệp đó như: lao động, vốn, tài sản, chi phí,…. bên cạnh đó thì hệ thống này còn thu thập các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp này như: doanh thu, lợi nhuận, thuế, tình hình tài chính của doanh nghiệp,…. Ngoài ra thì những chỉ tiêu liên quan đến các hoạt động đầu tư tài chính,… hay là các chỉ tiêu về các thông tin về thị trường, khách hàng,… cũng được thu thập theo như quy định của hệ thống này. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu của các cơ quan quản lí trong những giai đoạn khác nhau mà hệ thống chỉ tiêu này có thể thay đổi, bổ sung, hoàn thiện một cách phù hợp nhất với quy định của pháp luật.
Trong thời buổi hiện nay, hệ thống chỉ tiêu chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp được thực hiện theo định kì chủ yếu về vốn và tài sản hay thậm chí là chi phí và kết quả sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp được phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ.
Đồng thời thì theo như sự tìm hiểu của tác giả thì hệ thống chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp này đa phần đều phụ thuộc vào hệ thống chỉ tiêu thống kê theo chế độ báo cáo thống kê định kì hoặc các thông tin trong các cuộc điều tra.Do đó, có thể nhận thấy việc này theo Chế độ báo cáo thống kê cơ sở áp dụng đối với toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qui định các chỉ tiêu báo cáo bao gồm:
Những chỉ tiêu chung áp dụng đối với toàn bộ các doanh nghiệp được hệ thống chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp thu thập là những thông tin định danh của doanh nghiệp; các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm doanh thu chia theo ngành hoạt động, thuế và các khoản phí, lệ phí nộp ngân sách, lợi nhuận; lao động và thu nhập của người lao động hoặc các chỉ tiêu được thu thập còn có thể được xác định là dựa trên việc đóng góp của doanh nghiệp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và kinh phí công đoàn theo như quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt độngt hống kê này.
Hay những chỉ tiêu chung áp dụng đối với toàn bộ các doanh nghiệp được hệ thống chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp thu thập thông qua các chỉ tiêu này còn được xác định dựa trên vốn đầu tư thực hiện trong năm chia theo nguồn vốn, khoản mục đầu tư; các khoản chi và đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; xử lý và bảo vệ môi trường và các chỉ tiêu về ứng dụng công nghệ thông tin của doanh nghiệp. Cuối cùng mà hệ thống chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp thu thập các chỉ tiêu phản ánh tình hình xử lý rác thải doanh nghiệp và bảo vệ môi trường.
Những chỉ tiêu chuyên ngành theo lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp được hệ thống chỉ tiêu thống kê của doanh nghiệp được xác định rằng ngoài các chỉ tiêu chung, các doanh nghiệp, dự án còn phải báo cáo các chỉ tiêu chuyên ngành theo lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu phản ánh về sản phẩm/ sản lượng, quy mô, năng lực sản xuất của doanh nghiệp, cụ thể:
– Một là việc doanh nghiệp có hoạt động sản xuất công nghiệp báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dựa trên khối lượng sản phẩm sản xuất, tiêu thụ, tồn kho và giá trị sản phẩm xuất kho tiêu thụ trong năm, doanh thu thuần sản xuất công nghiệp.
– Hai là doanh nghiệp có hoạt động xây dựng báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dựa trên giá trị sản xuất xây dựng theo loại công trình; diện tích nhà ở hoàn thành trong năm theo chất lượng nhà, loại nhà và công trình thực hiện trong năm.
– Ba là doanh nghiệp có hoạt động thương mại báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dựa trên số cơ sở và diện tích kinh doanh.
– Bốn là doanh nghiệp có hoạt động dịch vụ lưu trú báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dựa trên số cơ sở kinh doanh; lượt khách/ngày khách phục vụ.
– Năm là doanh nghiệp có hoạt động vận tải, kho bãi, bốc xếp báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dự trên số lượng phương tiện vận tải chia theo loại đường; sản phẩm vận tải, bốc xếp chia theo loại đường.
– Sáu là, doanh nghiệp có hoạt động dịch vụ ăn uống báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dựa trên số cơ sở kinh doanh theo ngành.
– Bảy là, doanh nghiệp có hoạt động du lịch báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố dựa trên số cơ sở; lượt khách/ngày khách du lịch theo tua theo như quy định của pháp luật hiện hành.
– Tám là, doanh nghiệp có hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua các yếu tố như: Diện tích doanh nghiệp có hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất doanh nghiệp có hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng một số loại cây của doanh nghiệp có hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản; Số lượng, sản phẩm một số vật nuôi của doanh nghiệp có hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản. Sản lượng khai thác lâm sản; Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác; và tàu thuyền khai thác hải sản có động cơ.
– Chín là doanh nghiệp có hoạt động thu gom và xử lý rác thải báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua Khối lượng rác thải đã thu gom/xử lý trên địa bàn.
– Mười là doanh nghiệp có hoạt động xuất vànhập khẩu hàng hóa báo cáo các chỉ tiêu được thu thập thông qua lượng và giá trị xuất vànhập khẩu phân theo nước và mặt hàng.
– Cuối cùng doanh nghiệp có hoạt động thu và hoạt động chi dịch vụ với nước ngoài báo cáo các chỉ tiêu được thể hiện ở đây đó chính là giá trị thu vàchi theo loại dịch vụ và nước đối tác.