Hệ Mặt Trời (hay Thái Dương Hệ) là hệ hành tinh gồm có Mặt Trời ở trung tâm và các vật quay xung quanh. Hệ Mặt Trời được hình thành từ sự suy sụp của một đám mây phân tử khổng lồ cách đây gần 4,6 tỷ năm. Cùng tìm hiểu kỹ hơn về hệ mặt trời trong bài viết dưới đây:
Mục lục bài viết
1. Hệ mặt trời là gì?
1.1. Vũ trụ là gì?
Vũ Trụ là không gian vô tận có chứa các thiên hà. Còn thiên hà là tập hợp của các thiên thể bao gồm các vì sao, các hành tinh, các vệ tinh… cùng bức xạ điện từ, khí, bụi.
Trong vũ trụ hiện nay là ước tính là có khoảng 10 tỷ thiên hà. Chúng được mở rộng từ vụ nổ Bigbang khoảng 13 tỷ năm trước và hiện tại chưa xác định được kích thước. Trong thời điểm hiện tại, vũ trụ quan sát được có đường kính khoảng 28.5 tỷ parsec (tương đương 93 tỷ năm ánh sáng). Thiên hà chứa Mặt trời cùng với các hành tinh của nó tạo nên các Dải Ngân Hà.
1.2. Hệ mặt trời là gì?
Hệ Mặt trời hay còn được gọi với cái tên khác là Thái Dương hệ là một hệ hành tinh mà trong đó có mặt trời nằm ở trung tâm và xung quanh là các thiên thể thuộc phạm vi lực hấp dẫn trong hệ Mặt trời. Tất cả các hành tinh trong hệ đều hình thành bởi sự sụp đổ từ đám mây phân tử cực lớn cách đây khoảng 4,6 tỷ năm.
2. Tìm hiểu về hệ mặt trời
2.1. Hệ mặt trời hình thành như thế nào?
Theo nghiên cứu, hệ mặt trời bắt đầu hình thành từ khoảng 4,6 tỷ năm trước; Nguyên nhân xuất phát từ sự hấp dẫn của phần nhỏ thuộc đám mây phân tử khổng lồ. Tại thời điểm đó, hầu hết khối lượng bị suy sụp đều tích tụ ở trung tâm từ đó hình thành nên mặt trời. Theo các tài liệu nghiên cứu của các nhà thiên văn học thì sự hình thành của mặt trời trải qua hai giai đoạn: giai đoạn Tinh Vân mặt trời và giai đoạn hình thành Mặt trời.
2.2. Cấu trúc của hệ mặt trời:
Thiên thể chính trong hệ Mặt Trời là Mặt Trời, 1 ngôi sao kiểu G2 thuộc dãy chính chứa 99,86% khối lượng của cả hệ và vượt trội về lực hấp dẫn. 4 hành tinh khí khổng lồ của hệ chiếm 99% khối lượng còn lại, và khối lượng Sao Mộc kết hợp với khối lượng Sao Thổ thì chiếm >90% so với khối lượng tất cả các thiên thể khác.
Hầu hết các thiên thể lớn có mặt phẳng quỹ đạo gần trùng mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất, gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Mặt phẳng quỹ đạo của các hành tinh nằm rất gần với mặt phẳng hoàng đạo, trong khi các sao chổi và vật thể trong vành đai Kuiper thường có mặt phẳng quỹ đạo nghiêng 1 góc lớn so với mặt phẳng hoàng đạo. Mọi hành tinh và phần lớn các thiên thể khác quay quanh Mặt Trời theo chiều tự quay của Mặt Trời (ngược chiều kim đồng hồ, khi nhìn từ trên cực Bắc của Mặt Trời). Nhưng cũng có một số ngoại lệ, như sao chổi Halley lại quay theo chiều ngược lại.
3. Hệ mặt trời có bao nhiêu hành tinh:
3.1. Sự hình thành các hành tinh trong hệ mặt trời:
Các hành tinh trong hệ được tạo thành ở giai đoạn Tinh Vân Mặt Trời. Có sự hình thành đó là bởi mây bụi khí dạng địa sót lại sau quá trình hình thành Mặt trời. Phương pháp bồi tụ chính là phương thức mà các nhà khoa học đã chấp nhận.
Chính sự va đập vào nhau giữa chúng đã tạo thành một khối với đường kính 200m2. Khi các khối này va đập với nhau sẽ tạo thành những vật thể lớn hơn ước chừng 10km. Chúng tiếp tục lớn dần nhờ va chạm rồi tăng trưởng.
Cấu tạo phía bên trong Mặt trời tính từ tâm sẽ có 4 vòng gồm những phân tử dễ bay hơi và methanol ngưng tụ. Những vi thể hành tinh được sinh ra từ đây sẽ tạo ra hợp chất có độ nóng chảy cao. Những hợp chất đó chính là kim loại sắt, niken, nhôm và đá silicate. Các vật thể rắn sẽ dần hình thành những hành tinh đất đá.
Tại giai đoạn mới hình thành, các hành tinh vẫn ngập chìm trong đĩa khí bụi. Tốc độ quay quanh Mặt trời và áp suất ảnh hưởng đến các chất khí. Điều đó khiến sức cản sinh ra tạo nên truyền mô men động lượng. Nhờ đó mà các hành tinh dịch chuyển dần thành một quỹ đạo mới.
Lâu dần các hành tinh dịch chuyển vào phía trong đến khi đĩa tiêu tán rồi ổn định quỹ đạo đó cho đến ngày hôm nay.
3.2. Phân loại các hành tinh thuộc hệ mặt trời:
Các hành tinh trong hệ mặt trời thành 2 nhóm chính bao gồm:
– Hành tinh nhóm trong: Đây là những hành tinh có bề mặt ở dạng rắn, có chứa đá; Cụ thể bao gồm: Các hành tinh Sao Kim, Trái Đất, Sao Thuỷ và Sao hỏa.
– Hành tinh nhóm ngoài: Đây là những hành tinh khí bao gồm: Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Mộc, Sao Hải Vương. Riêng sao Hải Vương và Sao Thiên Vương.
4. Đặc điểm của các hành tinh thuộc hệ mặt trời:
4.1. Sao Thủy:
Sao Thủy hay còn gọi là Thủy tinh, tên tiếng anh là Mercury, sao chỉ lớn hơn so với Mặt trăng của Trái đất một chút, là hành tinh nằm gần nhất với Mặt trời, với chu kỳ quỹ đạo bằng 88 ngày Trái đất.
Bán kính Sao Thủy là 2347,7km, khối lượng lên tới 3,3022x1023kg và có hình cầu dẹt. Mặt ban ngày của sao Thủy bị hơ nóng bởi ánh nắng mặt trời, có thể đạt 840 độ F (450 độ C). Nhưng ban đêm, nhiệt độ có thể hạ xuống âm hàng trăm độ, thấp hơn mức đóng băng.
Trên sao thủy hầu như không có không khí để hấp thụ các tác động của thiên thạch, vì vậy bề mặt của hành tinh này nhìn như bị rỗ, với các hố lớn, giống như trên mặt trăng. Sao Thủy không có sự biến đổi về thời tiết theo mùa như các hành tinh khác.
Nếu nhìn từ Trái đất, Sao Thủy có chu kỳ giao hội trên quỹ đạo bằng xấp xỉ 116 ngày và nhanh hơn hẳn những hành tinh khác. Và trục nghiêng của Sao Thủy có độ nghiêng vào loại nhỏ nhất khoảng 1/30 độ, nhưng lại có độ lệch tâm quỹ đạo lớn nhất.
4.2. Sao Kim:
Đây là hành tinh thứ 2 trong hệ Mặt Trời và có chu kỳ quay 224,7 ngày Trái Đất, Sao Kim sáng trong bầu trời tối và chỉ xếp sau độ sáng của mặt trăng. Sao Kim có bán kính là 6051,8km và khối lượng khoảng 4,868×1024.
Venus là hành tinh cực kỳ nóng, thậm chí còn nóng hơn cả Sao Thủy, với bầu không khí rất độc hại, áp suất trên bề mặt sẽ nghiền nát và có thể giết chết con người.
Cấu trúc và kích thước của Sao Kim cho thấy giống với Trái đất, có bầu khí quyển dày đặc, độc hại giữ nhiệt trong hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát. Sao Kim lại quay chậm theo hướng ngược lại với hầu hết các hành tinh khác. điều này đúng là kỳ lạ phải không.
Theo như nghiên cứu của người Hy Lạp cho rằng hành tinh này có 2 vật thể khác nhau – một là bầu trời vào buổi sáng, hai là vào buổi tối và cũng gây ra nhiều báo cáo về vật thể bay không xác định.
4.3. Trái đất:
Hành tinh thứ ba là Trái đất của chúng ta, Trái đất là một hành tinh nước, với 2/3 hành tinh được bao phủ bởi đại dương là hành tinh duy nhất được biết đến có tồn tại sự sống. Bầu khí quyển của trái đất là giàu nitơ và oxy để duy trì sự sống.
Bề mặt của trái đất quay quanh của nó với vận tốc 467 mét mỗi ngày – khoảng hơn 1.000mph, tại đường xích đạo và thường quay với vận tốc 29km mỗi giây quanh Mặt Trời. Trái đất có đường kính 12.760km, Quỹ đạo 365,24 ngày.
4.4. Sao Hỏa:
Hành tinh thứ tư trong hệ Mặt trời này còn được gọi là Hỏa Tinh hoặc là “Hành tinh Đỏ” cái tên này được đặt theo đặc điểm của hành tinh do sắt oxit có mặt đắt nhiều trên bề mặt hành tinh làm cho bề mặt nó hiện lên với màu đỏ.
Sao Hỏa là hành tinh đất đá và lạnh
Đây là hành tinh đất đá và lạnh, trái ngược đúng không, sao Hỏa nhưng lại rất lạnh. Bụi bẩn là một oxit sắt, có mặt đất đá và có vách núi thung lũng, giống như cơn gió xoáy mang bụi – đến những cơn bão bụi nhấn chìm hành tinh.
Bụi phủ kín bề mặt sao Hỏa và ngập tràn nước đóng băng. Nếu hành tinh này nóng lên, nước sẽ ngập tràn nước lỏng.
Trong bất kể thời gian nào, Bầu khí quyển của hành tinh này quá mỏng để nước lỏng tồn tại được trên bề mặt hành tinh.
4.5. Sao Mộc:
Đây được coi là hành tinh khỉ khổng lồ trong hệ Mặt trời với khối lượng cực lớn, lớn nhất trong hệ Mặt trời của chúng ta. Và là hành tinh thứ 5 tính từ Mặt trời. Sao Mộc tên tiếng anh là Jupiter.
Sao Mộc là hành tinh lớn nhất trong hệ mặt trời
Mộc tinh là hành tinh khí khổng lồ, chứa chủ yếu là khí heli và khí hidro. Lớp khí quyển ngoài cùng hiện lên với dải mây ở độ cao khác nhau, do hiện tượng nhiễu loạn khí động, tương tác với các cơn bão tại biên tại hành tinh này. Không những vậy, Sao Mộc có từ trường mạnh, với rất nhiều mặt trăng xung quanh, trông rất giống với hệ mặt trời thu nhỏ.
4.6. Sao Thổ:
Đây là hành tinh thứ 6 tính từ Mặt trời, có 3 phần. Đây được coi là hành tinh lớn thứ 2 về kích thước lẫn khối lượng chỉ sau Mộc tinh. Bán kính của Sao Thổ lên tới 60.268km và khối lượng 5.684.6×1026. Tại hành tinh này chứa nhiều khí hidro và Heli, ngoài ra còn có nhiều mặt trăng.
Sao Thổ – hành tinh thứ 6 trong Hệ Mặt trời
4.7. Sao Thiên Vương:
Sao thiên vương là hành tinh thứ 7 trong Hệ Mặt trời. Màu sắc của sao Thiên Vương phản ánh sự có mặt của bụi mờ quang hóa hidrocabon trên cao, nằm phía các đám mây metan, và khiến sao này có màu lục lam.
Đây là hành tinh có bán kính lớn thứ ba và có khối lượng lớn thứ tư trong Hệ Mặt trời, có thành phần tương tự giống Sao Thiên Vương và khác so với hai hành tinh khí khác. Khí quyển của sao này cũng chứa thành phần cơ bản như khí hidro và khí heli, nhưng còn chứa thêm các hợp chất dễ bay hơi như nước, amoniac, metan cùng với hidrocacbon.
Với bầu khí quyển lạnh nhất trong số các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, với nhiệt độ khoảng -224 độ C, còn có hệ thống vành đai, từ quyển, cũng như có rất nhiều vệ tinh tự nhiên bao quanh.
Không những vậy Sao Thiên Vương còn tự quay quanh trục với độ nghiêng rất lớn, gần như song song với mặt quỹ đạo, nên cực Bắc và cực Nam của hành tinh này gần như tạo vị trí xích đạo.
Sao Thiên Vương có hệ thống vành đai, từ quyển và nhiều vệ tinh khác
4.8. Sao Hải Vương:
Hải Vương là hành tinh thứ 8 xa nhất tính từ Mặt trời, có gió mạnh nhất, đôi khi còn nhanh hơn tốc độ âm thanh đạt tới 1.500mph. Hành tinh này ở xa gấp Trái đất 30 lần tính từ mặt trời và rất lạnh.
Đây là hành tinh đầu tiên được tìm thấy bằng tính toán lý thuyết. Nhà thiên văn học Alexis Bouvard dựa vào sự nhiễu loạn của quỹ đạo Sao Thiên Vương đã kết luận rằng quỹ đạo nó bị nhiễu loạn do tương tác hấp dẫn với một hành tinh khác.
Hành tinh này có thành phần cơ bản là hidro, heli cùng một số ít các hidrocacbon và có cả nito. Ngoài ra còn chứa các phân tử băng như metan, amoniac, nước.
Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương là 2 hành tinh băng lớn nhất trong hệ mặt trời. Do ở xa mặt trời nên lượng nhiệt hấp thu được ít hơn các hành tinh khác.
Sao Hải Vương hay còn gọi là Hải Vương tinh
Ngoài ra, Hệ Mặt Trời còn có thêm các tiểu hành tinh khác mới tìm ra nữa, hiện tại có 5 hành tinh lùn là Ceres, Haumea, Pluto, Makemake, Eris.
5. Những điều thú vị khi nói về hệ mặt trời mà bạn nên biết:
Sao Thủy nằm gần Mặt Trời nhất. Tuy nhiên, Sao kim là hành tinh nóng nhất trong các hành tinh thuộc hệ mặt trời (không tính mặt trời)
Sao Diêm Vương là hành tinh nhỏ nhất: Kích thước này nhỏ hơn một nửa chiều rộng nước Mỹ và nhỏ hơn rất nhiều so với bất kỳ hành tinh lớn nào khác. Nó hiện không còn được xem là một hành tinh.
Hầu hết mọi thứ trên Trái Đất đều là nguyên tố hiếm: Thành phần cơ bản của Trái Đất chủ yếu là sắt, oxy, silic, magie, lưu huỳnh, niken, canxi, natri và nhôm. Tuy nhiên, khi so sánh với vũ trụ, chúng chỉ là các “nguyên tố vi lượng” bởi sự phong phú hơn nhiều của hydrogen và helium có trong vũ trụ.
Sao Mộc có đại dương lớn nhất trong tất cả các hành tinh: Hành tinh nằm xa Mặt Trời hơn 5 lần so với Trái Đất, có cấu tạo chủ yếu từ hydro và heli. Hydro trên sao Mộc tồn tại dưới dạng lỏng, tạo thành một “đại dương hành tinh” sâu 40.000 km.