Nguyên tắc về thừa kế đóng vai trò quan trọng, hình thành cơ sở pháp lý cho việc chia tài sản sau khi người chết qua đời. Dưới đây là bài viết về chủ đề: Giải bài tập môn Pháp luật đại cương về phần chia tài sản, mời bạn đọc theo dõi.
Mục lục bài viết
1. Giải bài tập môn Pháp luật đại cương về phần chia tài sản cơ bản:
Ông A và bà B kết hôn vào năm 1972, Ông bà có sinh được 3 người con là M, N và C. M kết hôn vào năm 1995 và sinh được 2 con là H và X. N kết hôn vào năm 1996 và sinh được hai người con là K và D. Vào tháng 3 năm 1997 ông A qua đời có để lại di chúc để lại di sản cho X và N. Qua quá trình gai đình điều tra nhận thấy rằng việc lập di chúc của ông A là không hợp pháp. Biết rằng ông A có tài sản tổng trị giá 200 triệu đồng. Ông A và bà B có tài sản chung là 100 triệu, bà B có làm chi phí mai táng cho ông A hết 40 triệu đồng.
Lời giải
Theo đề bài ta được các dữ kiện sau:
Tài sản riêng của ông A là 200.
Tài sản chung của ông A và B là 100.
Di sản của ông A là 200 + (100/2) = 250.
Do bà B làm mai táng cho ông A hết 40 nên di sản của ông A còn lại là 250 – 40 = 210.
Theo luật định những người được hưởng tài sản thừa kế của ông A gồm bà B, M, N và C: 210/4 = 52,5.
2. Giải bài tập môn Pháp luật đại cương về phần chia tài sản nâng cao:
Bài 1: Ông Khải và Bà Ba kết hôn với nhau năm 1935 và có 3 con là anh Hải, anh Dũng, chị Ngân. Chị Ngân kết hôn với anh Hiếu và có con chung là Hạnh. Năm 2006, Ông Khải chết có để lại di chúc cho con gái và cháu ngoại được hưởng toàn bộ di sản của ông trong khối tài sản chung của ông và bà Ba. Một năm sau bà Ba cũng chết và để lại toàn bộ di sản cho chồng, các con người em ruột của chồng tên Lương. Năm 2009, anh Dũng chết do bệnh nặng và có di chúc để lại tất cả cho anh ruột là Hải. Sau khi Dũng chết thì những người trong gia đình tranh chấp về việc phân chia di sản.
Hãy giải quyết việc tranh chấp, biết rằng bà Ba và ông Khải không còn người thân thích nào khác, anh Hải có lập văn từ chối hưởng di sản của bà Ba và anh dũng theo đúng qui định của pháp luật, chị Ngân cũng từ chối hưởng di sản của anh Dũng, tài sản chung của ông Khải và bà Ba cho đến thời điểm ông Khải chết là 1.2 tỷ, sau khi ông Khải chết, bà Ba còn tạo lập một căn nhà trị giá 300 triệu.
Giải:
Hồ sơ gia đình của ông Khải và bà Ba là một câu chuyện phức tạp với những di chúc và sự từ chối di sản từ các thành viên gia đình. Năm 1935, ông Khải và bà Ba kết hôn và từ hôn nhân này, họ có ba người con là anh Hải, anh Dũng và chị Ngân. Chị Ngân sau đó kết hôn với anh Hiếu và họ có một đứa con chung là Hạnh.
Đến năm 2006, ông Khải qua đời, để lại di chúc quan trọng cho con gái và cháu ngoại của ông. Trong di chúc, ông quyết định để lại toàn bộ di sản của mình trong khối tài sản chung của ông và bà Ba cho con gái và cháu ngoại. Khối tài sản này đến thời điểm ông Khải qua đời được xác định là 1.2 tỷ.
Một năm sau, bà Ba cũng qua đời và để lại toàn bộ di sản cho chồng và “các con người em ruột của chồng” tên là Lương. Tuy nhiên, sự miêu tả này có thể dẫn đến hiểu lầm vì có thể hiểu là các con của bà Ba và người em ruột của chồng, được đặt tên là Lương.
Năm 2009, anh Dũng qua đời và để lại di chúc rằng toàn bộ tài sản của mình sẽ được chuyển nhượng cho anh ruột là Hải. Tuy nhiên, điều này tạo nên một sự không nhất quán với việc chị Ngân từ chối hưởng di sản của anh Dũng. Nếu anh Dũng để lại di chúc như vậy, thì không có lý do gì chị Ngân từ chối phần của mình.
Theo giải thích của P, khi ông Khải qua đời, di chúc của ông đã chia đều khối tài sản chung cho con gái và cháu ngoại, mỗi người 300 triệu. Sau đó, bà Ba qua đời và để lại tài sản 900 triệu cho chồng và “các con người em ruột của chồng” là Lương. Số tiền này được chia đều cho 4 người, mỗi người 225 triệu.
Anh Dũng thừa kế 225 triệu từ bà Ba và theo di chúc của mình, toàn bộ số tài sản này được chuyển nhượng cho anh Hải. Tuy nhiên, anh Hải quyết định từ chối hưởng di sản của bà Ba và anh Dũng.
Như vậy, 500 triệu còn lại từ di chúc của anh Dũng sẽ được chia theo quy định pháp luật. Đối với hàng thừa kế thứ nhất, chị Ngân có quyền nhận phần của mình, và nếu có vợ con anh Hải, họ cũng sẽ được hưởng theo tỷ lệ pháp luật. Việc giải quyết tranh chấp này yêu cầu sự rõ ràng về di chúc và quy định pháp luật để đảm bảo mọi người nhận được quyền lợi của mình mà không gây tranh cãi thêm.
Bài 2:
Năm 1950, ông A kết hôn với bà B. Ông bà sinh được 2 người con gái là chị X (1953) & chị Y (1954). Sau một thời gian chung sống, giữa ông A & bà B phát sinh mâu thuẫn, năm 1959 ông A chung sống như vợ chồng với bà C. A & C sinh được anh T (1960) & chị Q (1963). Tháng 8/1979, X kết hôn với K, anh chị sinh được 2 con là M & N (1979-sinh đôi). Năm 1990, trên đường về quê chị X bị tai nạn chết. Năm 1993, ông A mắc bệnh hiểm nghèo & đã qua đời. Trước khi chết, ông A có để lại bản di chúc với nội dung cho anh T thừa hưởng toàn bộ tài sản do ông A để lại. Không đồng ý với bản di chúc đó, chị Y đã yêu cầu tòa án chia lại di sản của bố mình. Qua điều tra tòa án xác định khối tài sản của ông A và bà B là 500 triệu đồng. Hãy xác định hàng thừa kế đối với những người được hưởng di sản thừa kế của chị X & ông A?
Giải:
Năm 1950, ông A và bà B kết hôn và có hai người con gái là chị X (1953) và chị Y (1954). Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung, mâu thuẫn phát sinh giữa ông A và bà B, dẫn đến việc ông A chung sống như vợ chồng với bà C từ năm 1959. Trong thời gian này, họ có thêm hai người con là anh T (1960) và chị Q (1963).
Tháng 8/1979, chị X kết hôn với K và họ sinh được hai đứa con là M và N (1979 – sinh đôi). Năm 1990, trên đường về quê, chị X gặp tai nạn và qua đời. Năm 1993, ông A mắc bệnh nặng và qua đời, để lại một bản di chúc ghi rõ ràng rằng anh T sẽ thừa hưởng toàn bộ tài sản mà ông để lại.
Khối tài sản của ông A và bà B được xác định là 500 triệu đồng theo thông tin từ tòa án. Điều này bao gồm tài sản chung giữa ông A và bà B, tuy nhiên, tài sản giữa ông A và bà C không được đề cập.
Theo giải thích, ông A và bà C được công nhận là vợ chồng hợp pháp, và khi ông A qua đời, di chúc của ông xác định anh T thừa hưởng toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật, các quyền lợi thừa kế phải được phân chia theo tỷ lệ cụ thể.
Số tài sản của ông A được xác định là 250 triệu đồng, từ đó quy định rằng bà B và bà C sẽ được hưởng mỗi người 2/3 giá trị của một suất chia theo pháp luật, tức là 27,7 triệu đồng.
Như vậy, tài sản còn lại cho anh T là 194,6 triệu đồng. Các thành viên còn lại trong gia đình, bao gồm chị X, chị Y, và chị Q, không được nhắc đến trong việc thừa kế tài sản, có thể do mỗi người đã trở thành người trưởng thành và không mất năng lực hành vi theo quy định pháp luật.
Qua đó, bài toán đã giải quyết một cách chi tiết về phân chia di sản, tuân thủ theo quy định của pháp luật và các điều kiện cụ thể của gia đình ông A và bà B.
3. Cách giải bài tập môn Pháp luật đại cương về phần chia tài sản:
Trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc về thừa kế đóng vai trò quan trọng, hình thành cơ sở pháp lý cho việc chia tài sản sau khi người chết qua đời. Nguyên tắc này không chỉ nhấn mạnh quyền lựa chọn và quyền tự quyết của công dân mà còn bảo vệ tính công bằng và tôn trọng quyền lợi của mọi bên liên quan.
Một trong những mục tiêu chính của nguyên tắc pháp luật thừa kế là đảm bảo quyền tự do của mỗi người trong việc quyết định về tài sản cá nhân sau khi qua đời. Nguyên tắc này coi mỗi người là chủ nhân tối cao của tài sản mà họ đã tích luỹ trong suốt cuộc đời, cho phép họ tự do lập di chúc và quyết định việc thừa kế tài sản theo ý muốn cá nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Tính công bằng và tự do trong việc quyết định về di sản cá nhân được coi là cực kỳ quan trọng, giúp mọi người có cơ hội bảo vệ và chuyển giao tài sản một cách tốt nhất cho bản thân và gia đình. Nguyên tắc này cũng phản ánh tinh thần dân chủ trong hệ thống pháp luật thừa kế, nơi quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân được tôn trọng và bảo vệ.
Bình đẳng quyền của công dân là một nguyên tắc quan trọng khác, mà pháp luật thừa kế đặt ra để đảm bảo rằng mọi người thừa kế được xác định rõ ràng và bình đẳng. Quy định này đặt ra các hạn chế về những người thừa kế, bao gồm vợ, chồng, con cái, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột và những người thân thích khác. Điều này giúp đảm bảo rằng tất cả các người thừa kế, không phụ thuộc vào mối quan hệ gia đình, đều có quyền nhận di sản một cách công bằng và bình đẳng.
Nguyên tắc về tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người để lại di sản là một khía cạnh quan trọng nữa. Người lập di chúc có toàn quyền quyết định về việc sửa đổi, bổ sung, hoặc hủy bỏ di chúc của mình mà không cần phải phụ thuộc vào ý chí của người khác. Điều này không chỉ bảo vệ quyền tự do cá nhân mà còn đảm bảo rằng di chúc phản ánh chính xác ý muốn của người để lại di sản.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế có đặc điểm đặc biệt như trẻ em chưa thành niên, người già không có khả năng lao động, hay những người không có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình. Quy định này giúp đảm bảo rằng mọi người, bất kể tình huống cá nhân của họ, đều có cơ hội nhận được một phần công bằng và hợp lý của di sản thừa kế.
Tổng cộng, nguyên tắc pháp luật thừa kế cung cấp một cơ sở công bằng và công lý cho quá trình quản lý tài sản cá nhân sau khi người chết qua đời. Nguyên tắc này đồng thời xây dựng một hệ thống pháp luật thừa kế rõ ràng và công bằng, đảm bảo sự tôn trọng và tự do trong việc quyết định về di sản cá nhân.