Giá trị hàng hóa được biểu thị bằng giá cả được xác định bởi các khía cạnh lịch sử, xã hội và văn hóa của sản xuất và phân phối. Cùng bài viết tìm hiểu về giá trị hàng hóa là gì? Giá trị sử dụng của hàng hóa được hiểu là gì?
Mục lục bài viết
1. Giá trị hàng hóa là gì?
– Trong lĩnh vực kinh tế học, giá trị hàng hóa của một hàng hóa là giá trị nội tại thị trường tự do của nó trong các điều kiện sử dụng tối ưu. Trong thị trường tự do, giá trị hàng hóa của một hàng hóa sẽ được phản ánh bằng giá của nó. Ví dụ, nếu một mẫu đất có thể mang lại khoản lỗ ròng 100 đô la do để hoang hóa, 50 đô la thu được khi trồng ngô và thu được 100 đô la khi trồng lúa mì, thì giá trị hàng hóa của mẫu Anh đó là 100 đô la; người nông dân được cho là sử dụng đất đai của mình một cách tốt nhất. Giá cả của một hàng hóa dao động xung quanh giá trị hàng hóa của nó.
– Giá trị hàng hóa được biểu thị bằng giá cả được xác định bởi các khía cạnh lịch sử, xã hội và văn hóa của sản xuất và phân phối. Karl Marx đã mô tả giá cả là tên gọi tiền tệ của sức lao động được thực hiện trong một loại hàng hóa. Giá trị hàng hóa phụ thuộc vào công dụng của nó. Giá trị hàng hoá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu tiền tệ. Ví dụ, giá trị hàng hóa của đồng xu là giá trị của kim loại mà nó được tạo ra. Đồng tiền vàng và bạc có giá trị hàng hóa cao, trong khi tiền xu fiat như các loại tiền quý ngày nay có giá trị hàng hóa thấp. Điều này có liên quan lịch sử đặc biệt khi được phân tích dưới góc độ của Định luật Gresham.
– Bởi vì tiền trở nên có giá trị không phải do bản chất của nó, tức là giá trị hàng hóa của nó, mà là do hoạt động của nó, tiền tệ có xu hướng trở thành mã thông báo. Giá trị kinh tế của một hàng hóa hoặc dịch vụ đã khiến các nhà kinh tế bối rối kể từ khi bắt đầu môn học này. Đầu tiên, các nhà kinh tế đã cố gắng ước tính giá trị của một hàng hóa đối với một cá nhân, và mở rộng định nghĩa đó cho hàng hóa có thể trao đổi. Từ phân tích này đã đưa ra các khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi .
– Giá trị gắn với giá cả thông qua cơ chế trao đổi . Khi một nhà kinh tế quan sát một cuộc trao đổi, hai hàm giá trị quan trọng được tiết lộ: của người mua và người bán. Giống như việc người mua tiết lộ những gì anh ta sẵn sàng trả cho một số lượng nhất định của một hàng hóa, thì người bán cũng tiết lộ những gì anh ta phải trả để từ bỏ hàng hóa đó.
– Thông tin bổ sung về giá trị thị trường thu được bằng tốc độ thực hiện các giao dịch, cho người quan sát biết mức độ mà việc mua hàng hóa có giá trị theo thời gian. Nói một cách khác, giá trị là giá trị của một đối tượng hoặc điều kiện mong muốn so với các đối tượng hoặc điều kiện khác. Giá trị kinh tế được biểu thị bằng “mức độ” của một điều kiện hoặc hàng hóa mong muốn hoặc sẽ được từ bỏ để đổi lấy một số điều kiện hoặc hàng hóa mong muốn khác. Trong số các trường phái lý thuyết kinh tế cạnh tranh, có các thước đo khác nhau để đánh giá giá trị và các thước đo là chủ đề của lý thuyết giá trị . Các lý thuyết giá trị là một phần lớn của sự khác biệt và bất đồng giữa các trường phái lý thuyết kinh tế khác nhau.
2. Giá trị sử dụng của hàng hóa được hiểu là gì?
– Giá trị có nghĩa là công dụng của hàng hóa. Tuy nhiên, trong kinh tế học, thuật ngữ ‘giá trị’ có một ý nghĩa hoàn toàn khác.
– Giá trị sử dụng hay giá trị sử dụng là một khái niệm trong kinh tế chính trị cổ điển và kinh tế học mácxít. Nó đề cập đến các tính năng hữu hình của một hàng hóa (một đối tượng có thể giao dịch) có thể đáp ứng một số yêu cầu, mong muốn của con người hoặc phục vụ một mục đích hữu ích. Bất kỳ sản phẩm nào cũng có giá trị lao động và giá trị sử dụng, và nếu nó được mua bán trên thị trường thì nó cũng có giá trị trao đổi, thường được biểu hiện dưới dạng giá cả. Marx thừa nhận rằng hàng hóa được trao đổi cũng có một tiện ích chung, được ngụ ý bởi thực tế là mọi người muốn chúng, nhưng ông lập luận rằng bản thân điều này không nói lên đặc điểm cụ thể của nền kinh tế mà chúng được sản xuất và bán.
– Quá trình mà người lao động được thực hiện để cảm thấy xa lạ với các sản phẩm lao động của mình. Việc tạo ra hàng hóakhông cần thiết phải dẫn đến xa lánh và thực sự có thể đạt được thỏa mãn cao độ: người ta đổ tính chủ quan của mình vào một đối tượng và người ta thậm chí có thể đạt được sự thích thú từ thực tế là người khác lại có được sự thích thú từ nghề của chúng ta.
– Trong chủ nghĩa tư bản, người lao động bị bóc lột trong chừng mực anh ta không làm việc để tạo ra một sản phẩm mà sau đó anh ta bán cho một người thực sự; thay vào đó, giai cấp vô sản làm việc để sống, để có được những phương tiện sống mà anh ta chỉ có thể đạt được bằng cách bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để được trả công (như thể sức lao động của anh ta tự nó là một tài sản có thể mua và bán ). Người công nhân xa lánh sản phẩm của mình chính vì họ không còn sở hữu sản phẩm đó nữa, sản phẩm đó bây giờ thuộc về nhà tư bản, người đã mua sức lao động của giai cấp vô sản. đổi lấy quyền sở hữu độc quyền đối với các sản phẩm của giai cấp vô sản và tất cả lợi nhuận thu được từ việc bán các sản phẩm đó.
– Các khái niệm giá trị, giá trị sử dụng, công dụng, giá trị trao đổi và giá cả có lịch sử rất lâu đời trong tư tưởng kinh tế và triết học. Từ Aristotle đến Adam Smith và David Ricardo, ý nghĩa của chúng đã phát triển. Smith nhận ra rằng hàng hóa có thể có giá trị trao đổi nhưng có thể không đáp ứng giá trị sử dụng, chẳng hạn như kim cương, trong khi hàng hóa có giá trị sử dụng rất cao có thể có giá trị trao đổi rất thấp, chẳng hạn như nước. Marx nhận xét ví dụ rằng “ở các nhà văn Anh thế kỷ 17, chúng ta thường thấy giá trị theo nghĩa giá trị sử dụng và giá trị theo nghĩa giá trị trao đổi.” Tuy nhiên, với sự mở rộng của kinh tế thị trường, trọng tâm của các nhà kinh tế học ngày càng chú trọng đến giá cả và các quan hệ giá cả, quá trình trao đổi xã hội được cho là xảy ra như một sự thật tự nhiên cho trước.
– Trong Bản thảo kinh tế và triết học năm 1844, Marx nhấn mạnh rằng giá trị sử dụng của sản phẩm lao động là thực tế và được xác định một cách khách quan; nghĩa là, nó kế thừa những đặc điểm nội tại của sản phẩm để có thể thỏa mãn nhu cầu của con người. hoặc muốn. Do đó, giá trị sử dụng của một sản phẩm tồn tại như một hiện thực vật chất đối với nhu cầu xã hội không phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân của bất kỳ người cụ thể nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa cụ thể là giá trị sử dụng xã hội, nghĩa là nó có giá trị sử dụng được chấp nhận chung cho những người khác trong xã hội chứ không chỉ cho người sản xuất.
– Giá trị sử dụng : Nó là sức mạnh thỏa mãn mong muốn của một hàng hóa. Sự hài lòng mà một người có được từ việc sử dụng hàng hóa được gọi là giá trị sử dụng. Ví dụ, nước có giá trị sử dụng to lớn, vì nó làm dịu cơn khát và nếu không có nó thì cuộc sống hàng ngày chỉ là không thể. Chất lượng của nước là giá trị sử dụng của nước.
– Giá trị trao đổi :Đó là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta có thể có được trên thị trường để đổi lấy một thứ cụ thể. Nói cách khác, đó là giá của một hàng hóa cụ thể có thể được bán và mua trên thị trường. Ví dụ, nếu một kg gạo đổi được một tá chuối, thì ta có thể nói rằng giá trị của một kg gạo bằng một tá chuối.
3. Yếu tố phụ thuộc của giá trị trao đổi:
(i) Thời gian: Giá trị trao đổi phụ thuộc vào yếu tố thời gian. Có nghĩa là, với sự thay đổi về giá trị thời gian để đổi lấy một hàng hóa so với hàng hóa khác sẽ khác nhau.
(ii) Địa điểm: Giá trị trao đổi cũng tùy thuộc vào từng nơi. Giá trị trao đổi đối với một hàng hóa cụ thể khác nhau giữa các thị trường này với các thị trường khác. Do đó, nó thay đổi tùy theo thời gian và địa điểm. Xin nhắc lại, một loại hàng hóa có thể có giá trị sử dụng vô cùng lớn nhưng không có giá trị trao đổi hoặc ngược lại. Ví dụ, nước có giá trị sử dụng vô cùng to lớn nhưng không có giá trị trao đổi. Ngược lại, kim cương có giá trị trao đổi rất lớn nhưng không có giá trị sử dụng.