Dự toán tổng thể doanh nghiệp là dự toán thể hiện mục tiêu của tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp, như bán hàng, sản xuất, nghiên cứu, marketing, dịch vụ khách hàng, tài chính... Nội dung? Ý nghĩa?
Đối với một doanh nghiệp khi đi vào hoạt động thì một trong những vấn đề lớn nhất mà doanh nghiệp phải quan tâm đến đó chính là việc dự toán tổng thể doanh nghiệp. Việc làm này phải được thực hiện bởi tất cả các ban ngành và bộ phận trong công ty để có thể đưa ra một dự toán tổng thể nhất của doanh nghiệp cho quá trình hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp này. Nói thì thế những những vấn đề cốt lỡi cựa dự toán tổng thể doanh nghiệp thì chắc hẳn không phải ai cũng hiểu hết về những nội dung liên quan đến vấn đề này.
Mục lục bài viết
1. Dự toán tổng thể doanh nghiệp là gì?
Dự toán tổng thể doanh nghiệp là dự toán thể hiện mục tiêu của tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp, như bán hàng, sản xuất, nghiên cứu, marketing, dịch vụ khách hàng, tài chính…
Dự toán tổng thể doanh nghiệp định lượng kì vọng của nhà quản lí về thu nhâpj, các luồng tiền và vị trí tài chính trong tương lai.
Dự toán tổng thể doanh nghiệp là tổng hợp tất cả các ngân sách cấp dưới do các lĩnh vực chức năng khác nhau của một công ty lập, và cũng bao gồm các báo cáo tài chính được lập ngân sách, dự báo tiền mặt và kế hoạch tài trợ. Dự toán tổng thể doanh nghiệp thường được trình bày theo định dạng hàng tháng hoặc hàng quý và thường bao gồm toàn bộ năm tài chính của công ty. Văn bản giải thích có thể được bao gồm trong dự toán tổng thể doanh, trong đó giải thích định hướng chiến lược của công ty, cách dự toán tổng thể doanh sẽ hỗ trợ trong việc hoàn thành các mục tiêu cụ thể và các hành động quản lý cần thiết để đạt được ngân sách. Cũng có thể có một cuộc thảo luận về những thay đổi số lượng người được yêu cầu để đạt được ngân sách.
Dự toán tổng thể doanh nghiệp là công cụ lập kế hoạch tập trung mà nhóm quản lý sử dụng để chỉ đạo các hoạt động của một tập đoàn, cũng như để đánh giá hoạt động của các trung tâm trách nhiệm khác nhau của nó. Thông thường, nhóm quản lý cấp cao sẽ xem xét một số lần lặp lại của dự toán tổng thể doanh và kết hợp các sửa đổi cho đến khi đạt được ngân sách phân bổ ngân sách để đạt được kết quả mong muốn. Hy vọng rằng một công ty sử dụng ngân sách có sự tham gia để đạt được ngân sách cuối cùng này, nhưng nó cũng có thể bị quản lý cấp cao áp đặt cho tổ chức, với ít ý kiến đóng góp từ các nhân viên khác.
Dự toán tổng thể ngân sách tổng hợp vào ngân sách chính bao gồm:
Dự toán tổng thể ngân sách lao động trực tiếp
Dự toán tổng thể ngân sách nguyên vật liệu trực tiếp
Dự toán tổng thể kết thúc ngân sách thành phẩm
Dự toán tổng thể ngân sách chi phí sản xuất
Dự toán tổng thể ngân sách sản xuất
Dự toán tổng thể ngân sách bán hàng
Dự toán tổng thể ngân sách chi phí bán hàng và chi phí quản lý
Dự toán tổng thể ngân sách chi phí bán hàng và chi phí quản lý có thể được chia nhỏ thành ngân sách cho các bộ phận riêng lẻ, chẳng hạn như bộ phận kế toán, kỹ thuật, cơ sở vật chất và tiếp thị. Khi dự toán tổng thể doanh đã được quyết toán, nhân viên kế toán có thể nhập ngân sách đó vào phần mềm kế toán của công ty để phần mềm này có thể đưa ra các báo cáo tài chính so sánh giữa ngân sách và kết quả thực tế. Các tổ chức nhỏ hơn thường xây dựng dự toán tổng thể doanh của họ bằng cách sử dụng bảng tính điện tử. Tuy nhiên, bảng tính có thể có lỗi công thức và cũng gặp khó khăn khi xây dựng bảng cân đối ngân sách. Các tổ chức lớn hơn sử dụng phần mềm dành riêng cho ngân sách, không có hai vấn đề này.
2. Ý nghĩa:
Khi một công ty thực hiện ngân sách tổng thể, ban lãnh đạo cấp cao có xu hướng buộc tổ chức phải tuân thủ chặt chẽ bằng cách đưa các mục tiêu ngân sách vào kế hoạch trả công cho nhân viên. Làm như vậy có các tác dụng sau:
– Khi lập ngân sách, nhân viên có xu hướng ước tính doanh thu thấp và chi phí cao, để họ có thể dễ dàng đáp ứng ngân sách và đạt được kế hoạch trả thưởng.
– Việc buộc tổ chức tuân theo ngân sách đòi hỏi phải có một nhóm các nhà phân tích tài chính theo dõi và báo cáo về các phương sai so với kế hoạch.
Điều này làm tăng thêm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp. Các nhà quản lý có xu hướng bỏ qua các cơ hội kinh doanh mới, bởi vì tất cả các nguồn lực đã được phân bổ để đạt được ngân sách, và các khuyến khích cá nhân của họ gắn liền với ngân sách. Do đó, việc thực thi ngân sách tổng thể có thể làm sai lệch kết quả hoạt động của một doanh nghiệp. Do vấn đề này, có thể tốt hơn nếu sử dụng ngân sách tổng thể như một hướng dẫn sơ bộ cho những kỳ vọng ngắn hạn của ban lãnh đạo đối với doanh nghiệp.
Với những vai trò như trên, dự toán tổng thể doanh nghiệp có ý nghĩa như sau:
– Thứ nhất, dự toán tổng thể doanh nghiệp được xác định ở đây đó chính là sự tiên liệu tương lai có hệ thống nhằm cung cấp cho nhà quản lí các mục tiêu hoạt động thực tiễn, trên cơ sở đó kết quả thực tế sẽ được so sánh và đánh giá. Biện pháp này nâng cao vai trò kế toán trách nhiệm trong kế toán quản trị.
– Thứ hai, dự toán tổng thể doanh nghiệp có một vai trò rất quan trọng đó chính là cơ sở để nhà quản lí tổ chức thực hiện nhiệm vụ của doanh nghiệp, là phương tiện để phối hợp các bộ phận trong doanh nghiệp và gíup các nhà quản lí biết rõ cách thức các hoạt động trong doanh nghiệp đan kết với nhau.
– Thứ ba, dự toán tổng thể doanh nghiệp là phương thức truyền thông để các nhà quản lí trao đổi các vấn đề liên quan đến mục tiêu, quan điểm và kết quả đạt được.
Lập dự toán tổng thể doanh nghiệp được xác định là việc cho phép các nhà quản lí xây dựng và phát triển nhận thức về sự đóng góp của mỗi hoạt động đến hoạt động chung của toàn doanh nghiệp.
3. Nội dung của dự toán tổng thể doanh nghiệp:
Dự toán tổng thể doanh nghiệp là tổ hợp của nhiều dự toán của mọi hoạt động của doanh nghiệp, có liên hệ với nhau trong một thời kì nào đó. Không những thế mà dự toán tổng thể có thể lập cho nhiều thời kì như tháng, qúy, năm. Hình thức và số lượng các dự toán thuộc dự toán tổng thể tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp. Do đó, theo như quy định thì dự toán tổng thể bao gồm hai phần chính: dự toán hoạt động và dự toán tài chính.
– Trong đó thì dự toán hoạt động được biết đến với định nghĩa đó chính là dự toán tổng thể phản ánh trực tiếp và cụ thể nhất mức thu nhập và chi phí đòi hỏi để đạt mục tiêu lợi nhuận.
– Thứ hai, dự toán tài chính trong dự toán tổng thể dong nghiệp là dự toán phản ánh chính xác lại tình hình tài chính theo dự kiến của doanh nghiệp và cách thức tài trợ cần thiết cho các hoạt động đã lập dự toán.
Đồng thời thì theo như quy định của pháp luật hiện hành thì mỗi loại dự toán trên lại bao gồm nhiều dự toán bộ phận có liên quan chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ đó mà các dự toán doanh nghiệp phải được xây dựng dựa trên cơ sở của dự báo. Kết quả của quá trình xây dựng dự toán là các báo cáo nội bộ và các báo cáo đó không thể cung cấp cho người ngoài doanh nghiệp. Dự toán tổng thể chính là kì vọng hoặc mong muốn của nhà quản lí về những công việc mà doanh nghiệp dự tính hành động cũng như kết quả tài chính của các hoạt động đó.
Ví dụ:
Nhiều ngân sách cấp thấp hơn có các định dạng cụ thể được sử dụng để đạt được các kết quả nhất định, chẳng hạn như chi phí được hấp thụ hoàn toàn của hàng tồn kho thành phẩm hoặc số lượng đơn vị sản phẩm sẽ được sản xuất. Đây không phải là trường hợp của ngân sách tổng thể, vốn trông rất giống một bộ báo cáo tài chính chuẩn. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán sẽ ở định dạng thông thường theo quy định của Nguyên tắc Kế toán được Chấp nhận Chung hoặc Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế. Sự khác biệt chính là ngân sách tiền mặt, thường không xuất hiện ở định dạng chuẩn của báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Thay vào đó, nó phục vụ mục đích thiết thực hơn là xác định các dòng tiền vào và ra cụ thể sẽ là kết quả của phần còn lại của mô hình ngân sách.
Khoản mục khó ước tính nhất trong ngân quỹ tiền mặt là sự thay đổi ròng vốn lưu động giữa các thời kỳ. Trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, vốn lưu động có thể là một con số âm rất lớn, do công ty phải đầu tư vào các khoản phải thu nhiều hơn bình thường. Nếu lượng vốn lưu động được duy trì ổn định mặc dù tăng trưởng nhanh chóng, thì rất có thể Ban lãnh đạo đã xây dựng kỳ vọng không thực tế vào ngân sách để có thể thu các khoản phải thu nhanh hơn so với trường hợp trước đây. Một vấn đề tương tự có thể phát sinh với hàng tồn kho, một thành phần khác của vốn lưu động. Nhìn chung, cần nhiều hàng tồn kho hơn để hỗ trợ nhiều doanh thu hơn, do đó, phần vốn lưu động bao gồm hàng tồn kho có thể được kỳ vọng sẽ tăng cùng với việc bán được nhiều hàng hơn. Do đó, rất có khả năng một công ty trải qua bất kỳ mức tăng trưởng nào sẽ dự báo dòng tiền âm do cần phải cung cấp thêm vốn lưu động.