Vị trí đơn vị thương lượng là một công việc được đại diện bởi liên đoàn lao động. Các đơn vị thương lượng bao gồm hơn một nửa số công việc trong Chính phủ Liên bang. Các liên đoàn lao động thương lượng các điều kiện tuyển dụng khác nhau cho những công việc này. Cùng tìm hiểu về đơn vị đơn vị thương lượng là gì? Đặc trưng của đơn vị thương lượng?
Mục lục bài viết
1. Đơn vị thương lượng là gì?
Trong tiếng Anh đơn vị thương lượng được gọi với tên gọi tiếng anh là Bargaining unit.
Đơn vị thương lượng, trong quan hệ lao động, là một nhóm nhân viên có cộng đồng lợi ích rõ ràng và có thể xác định được (theo luật của Hoa Kỳ) được đại diện bởi một liên đoàn lao động trong thương lượng tập thể và các giao dịch khác với ban quản lý. Ví dụ sẽ là các giáo sư không thuộc quản lý, các chuyên gia thực thi pháp luật, công nhân cổ cồn, nhân viên văn phòng và hành chính, v.v. Vị trí địa lý cũng như số lượng cơ sở vật chất có trong các đơn vị thương lượng có thể là vấn đề trong các trường hợp đại diện.
2. Thành phần của đơn vị thương lượng:
Quy mô của một công ty không liên quan đến quy mô của một đơn vị thương lượng. Đơn vị thương lượng phải bao gồm ít nhất ba nhân viên và phải có sự hỗ trợ của đa số nhân viên trong đơn vị thương lượng. Tuy nhiên, đơn vị thương lượng có thể là một bộ phận nhỏ của một công ty lớn, nơi không có nhân viên nào khác là thành viên của công đoàn.
Đơn vị thương lượng đề cập đến nhóm nhân viên được đại diện bởi công đoàn, hoặc những nhân viên mà công đoàn đề xuất đại diện khi đăng ký chứng nhận. Ban Quan hệ Lao động sẽ chỉ chứng nhận một công đoàn đại diện cho một nhóm người lao động nếu thấy rằng nhóm đó được yêu cầu phù hợp với thương lượng tập thể. Việc một đơn vị có phù hợp để thương lượng hay không phụ thuộc vào một số yếu tố được giải thích trong các quyết định hàng đầu của Hội đồng quản trị.
Một nhóm người lao động thay mặt tổ chức công đoàn được công nhận tiến hành thương lượng tập thể. Đơn vị thương lượng thường bao gồm tất cả người lao động (cho dù họ có phải là thành viên của công đoàn hay không) thực hiện một vai trò hoặc các vai trò cụ thể đối với người sử dụng lao động.
Nếu không được thống nhất giữa công đoàn và người sử dụng lao động, một đơn vị thương lượng thích hợp có thể được thành lập bởi Ủy ban Trọng tài Trung ương sau đơn xin công nhận bắt buộc.
Trong bối cảnh lao động, một nhóm gồm hai hoặc nhiều nhân viên chia sẻ lợi ích chung về các điều kiện và điều kiện làm việc của họ và những người:
– Được đại diện bởi một công đoàn với mục đích thương lượng về các điều khoản và điều kiện tuyển dụng.
-Tìm kiếm để được đại diện bởi một công đoàn.
Đơn vị thương lượng thường được xác định trong thỏa ước lao động tập thể và được mô tả theo loại công việc, phân loại công việc hoặc vị trí của người lao động. Ví dụ:
-Tất cả các nhân viên sản xuất và bảo trì.
– Tất cả các tài xế xe tải.
– Tất cả các nhân viên không giám sát tại một nhà máy cụ thể.
Sự phù hợp của một đơn vị thương lượng có thể được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc bởi Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) tại một phiên điều trần. Khi xác định sự phù hợp của một đơn vị thương lượng, NLRB thường xem xét cộng đồng lợi ích của nhân viên, bao gồm:
-Các điều khoản và điều kiện tuyển dụng phổ biến, chẳng hạn như: tiền công; những lợi ích; giờ; ca làm việc; và nhiệm vụ.
– Giám sát chung.
– Địa điểm làm việc chung.
– Liên hệ giữa các nhân viên tại các địa điểm làm việc khác nhau.
– Tích hợp các hoạt động của người sử dụng lao động (ví dụ, cách các phòng ban khác nhau tương tác).
– Các kỹ năng và chức năng của nhân viên.
– Tần suất luân chuyển nhân viên giữa các vị trí.
Một nhân viên chỉ đủ điều kiện để bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử NLRB nếu anh ta là thành viên của đơn vị thương lượng được đề cập trong cuộc bầu cử.
3. Đặc trưng của đơn vị thương lượng:
Người giám sát không được tăng lên và Chủ đầu tư phải cố gắng hết sức hợp lý để giảm bớt khối lượng công việc của đơn vị thương lượng mà người giám sát thực hiện. Người giám sát sẽ chỉ thực hiện công việc của đơn vị thương lượng trong phạm vi mà họ đã thực hiện công việc đó trước đó. Trong suốt thời hạn của Thỏa thuận này, khối lượng công việc của đơn vị thương lượng mà người giám sát thực hiện sẽ không tăng lên và Chủ đầu tư sẽ cố gắng hết sức hợp lý để giảm bớt khối lượng công việc của đơn vị thương lượng mà người giám sát thực hiện.
Ngoài ra, các nhân viên giám sát chỉ được thực hiện công việc của đơn vị thương lượng trong các trường hợp sau: trong trường hợp khẩn cấp; khi cần thiết để hỗ trợ giải lao và / hoặc ăn trưa; hướng dẫn hoặc đào tạo nhân viên; thể hiện phương pháp thích hợp để hoàn thành nhiệm vụ được giao; để tránh làm thêm giờ bắt buộc; cho phép giải phóng nhân viên cho Công đoàn hoặc các hoạt động khác đã được phê duyệt; cung cấp bảo hiểm cho những trường hợp vắng mặt hoặc khi đặc điểm kỹ thuật phân loại quy định rằng người giám sát, như một phần công việc của mình, một số nhiệm vụ giống như nhân viên của đơn vị thương lượng.
Trừ những trường hợp khẩn cấp, cơ hội làm thêm giờ đối với công việc thường được thực hiện bởi nhân viên của đơn vị thương lượng trước tiên sẽ được cung cấp cho những nhân viên của đơn vị thường thực hiện công việc đó trước khi có thể dành cho những nhân viên không thuộc đơn vị thương lượng. Chủ đầu tư công nhận tính chính trực của các đơn vị thương lượng và sẽ không hành động vì mục đích làm xói mòn các đơn vị thương lượng.
4. Sự khác nhau giữa các đơn vị thương lượng:
Trên thực tế thì có thể xác định rằng các đơn vị thương lượng khác nhau về quy mô và cơ cấu.
+ Sự khác nhau đầu tiên có thể nhận thấy ở đây đó chính là việc dựa trên quy mô. Mà quy mô ở đây được biết đến đó chính là khái niệm chỉ số người lao động hiện có trong đơn vị: trong một nhà máy, nhiều nhà máy, hay nhiều công ty. Qui mô được hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là một trong những yếu tố quyết định sức mạnh của đơn vị thương lượng trong tiến trình thương lượng về hợp đồng lao động.
+ Thứ hai, ở đây quy mô của đơn vị thương lượng không phụ thuộc vào qui mô của tổ chức nhưng đơn vị thương lượng phải bao gồm ít nhất ba nhân viên. Một trong những điều quan trọng và không thể thiếu của đơn vị thương lượng được quy định và cần phải lưu ý đó chính là đơn vị thương lượng phải có sự hỗ trợ đa số của công đoàn. Không những thế mà khi các đơn vị thương lượng hoạt động cho các nhu cầu chung của công đoàn.
+ Thứ ba, trong cơ cấu của đơn vị thương lượng thì khái niệm dùng để chỉ cơ cấu ngành nghề của người lao động trong đơn vị thương lượng theo như quy định của pháp luật hiện hành.
– Trong một tổ chức lớn thì đơn vị thương lượng cũng được xác định là một trong những bộ phận nhỏ của đơn vi thương lượng này. Đồng thời thì các vấn đề về tiền lương, giờ làm việc, lộ trình thăng tiến, tiền thưởng, lợi ích, điều kiện làm việc và bất kì tranh chấp nào khác có thể xảy ra đều sẽ được thực hiện việc đàm phán những nội dung này thông qua đơn vị thương lượng của công ty lớn đó theo như quy định.
– Trong quá trình thực hiện hoạt động ký kết hợp đồng với một chủ thể nhất định thì chủ thể đứng ra ký không ai khác ngoài đơn vị thương lượng là người kí kết hợp đồng. Để trở thành một đơn vị thương lượng thì tổ chức của người lao động phải được Hội đồng lao động Quốc gia cấp giấy phép. Do đó, dối với việc trở thành đơn vị thương lượng ở Mỹ thì tổ chức của người lao động cũng phải phải được Hội đồng lao động Quốc gia cấp giấy phép theo như quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời thì người chủ buộc phải thương lượng với tổ chức của người lao động được cấp giấy phép.