Độc quyền nhóm được hiểu cơ bản là một cấu trúc thị trường mà trong đó có một số lượng nhỏ các công ty mà không công ty nào trong số đó có thể loại bỏ ảnh hưởng đáng kể của các công ty khác. Độc quyền nhóm mua và độc quyền nhóm bán?
Các cấu trúc thị trường có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của các doanh nghiệp. Có nhiều loại cấu trúc thị trường và mỗi loại sẽ có các chức năng và tính chất khác nhau. Một trong số đó chúng ta cần phải kể đến độc quyền nhóm, đặc biệt là độc quyền nhóm mua. Chắc hẳn hiện nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ về thuật ngữ này.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về độc quyền nhóm:
Khái niệm độc quyền nhóm:
Độc quyền nhóm hay còn gọi là độc quyền tập đoàn.
Độc quyền nhóm được hiểu cơ bản là một cấu trúc thị trường mà trong đó có một số lượng nhỏ các công ty mà không công ty nào trong số đó có thể loại bỏ ảnh hưởng đáng kể của các công ty khác. Tỉ lệ tập trung đo lường thị phần của các công ty lớn nhất.
Độc quyền nhóm hiện nay bao gồm hai công ty trở lên. Không có giới hạn chính xác dành cho số lượng doanh nghiệp trong một nhóm độc quyền, nhưng con số này phải đủ thấp để các hành động của một công ty có thể gây ảnh hưởng đáng kể lên các công ty khác.
Các nhóm độc quyền từng tồn tại trong lịch sử bao gồm các chủ thể là những nhà sản xuất thép, các công ty dầu khí, đường sắt, sản xuất lốp xe, chuỗi cửa hàng tạp hóa. Những lo lắng về kinh tế và pháp lí về độc quyền nhóm chính là chúng ngăn chặn những công ty mới tham gia, chậm đổi mới và tăng giá cao. Tất cả các hành động này đều gây hại cho người tiêu dùng.
Các công ty trong một nhóm độc quyền áp đặt giá cả, dưới hình thức hợp tác, hoặc dưới sự lãnh đạo của một công ty, thay vì chấp nhận giá từ thị trường. Cũng chính bởi vì thế mà tỉ suất lợi nhuận của các công ty này hơn so với mức có thể đạt được trong một thị trường cạnh tranh hơn.
Độc quyền nhóm trong tiếng Anh là gì?
Độc quyền nhóm trong tiếng Anh là Oligopoly.
Điều kiện dẫn tới độc quyền nhóm:
Các điều kiện cho phép tồn tại độc quyền bao gồm các điều kiện sau đây: chi phí vốn đầu vào cao, các đặc quyền pháp lí (giấy phép sử dụng tần số vô tuyến hoặc đất để sử dụng cho đường sắt) và một nền tảng gây dựng được giá trị với nhiều khách hàng hơn (các trang mạng xã hội).
Sự chuyển đổi công nghệ và thương mại toàn cầu cũng đã thay đổi một số điều kiện được nêu cụ thể bên trên: ví dụ cụ thể như việc sản xuất tại nước ngoài đã ảnh hưởng đến ngành thép. Trong lĩnh vực phần mềm văn phòng, Microsoft đã bị Google Docs, đây là một công cụ được Google tài trợ bằng tiền từ trình tìm kiếm trên web của mình đã gây ảnh hưởng.
Lý do độc quyền nhóm không bị phá vỡ:
Các công ty cần thấy lợi ích của sự hợp tác vượt trội hơn so với chi phí cạnh tranh, chính vì vậy mà các chủ thể đồng ý không cạnh tranh và quyết định hợp tác để đạt lợi ích. Các công ty đôi khi đã tìm ra những cách sáng tạo để tránh tạo ấn tượng của việc ấn định giá.
Một cách tiếp cận khác đó chính là để các công ty đi theo một lãnh đạo giá được công nhận; khi công ty đó tăng giá, các hãng khác sẽ làm theo.
Vấn đề cơ bản mà các công ty này phải đối mặt là khả năng gian lận: nếu tất cả các công ty trong nhóm độc quyền đồng ý cùng nhau hạn chế nguồn cung và giữ giá cao, thì mỗi công ty sẽ cướp được thị phần đáng kể từ các bên khác bằng cách giảm giá, hoặc tăng lượng sản phẩm của công ty trên thị trường.
Khi chi phí và lợi ích được cân bằng để không có công ty nào muốn tách khỏi nhóm thì từ đó cũng sẽ tạo ra trạng thái cân bằng Nash cho nhóm độc quyền. Điều này cũng có thể đạt được bằng các hợp đồng hoặc điều kiện thị trường, các hạn chế pháp lí hoặc mối quan hệ chiến lược giữa các thành viên của nhóm độc quyền cho phép trừng phạt những kẻ gian lận.
2. Độc quyền nhóm mua và độc quyền nhóm bán:
2.1. Độc quyền nhóm mua:
Khái niệm độc quyền nhóm mua:
Độc quyền nhóm mua hay còn gọi là thiểu quyền mua, chỉ một thị trường trong đó chỉ có một vài người mua cho một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định.
Độc quyền nhóm mua cũng tương tự như độc quyền nhóm bán (thị trường có vài người bán một sản phẩm hay dịch vụ), là lực lượng thị trường chỉ có một vài người mua lớn cho một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định.
Độc quyền nhóm mua cho phép các chủ thể là người mua kiểm soát người bán nhiều hơn và có thể khiến người bán giảm giá.
Ngành công nghiệp thức ăn nhanh của Mỹ được xem là một ví dụ điển hình về độc quyền nhóm mua. Trong ngành công nghiệp này, một số lượng nhỏ người mua lớn (như McDonald, Burger King, Wendy, v.v.) kiểm soát thị trường thịt ở Mỹ.
Sự kiểm soát này sẽ cho phép các chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh đưa ra mức giá mua để mua thịt từ nông dân và gây ảnh hưởng đến các điều kiện phúc lợi động vật hay tiêu chuẩn lao động.
Độc quyền nhóm mua trong tiếng Anh là gì?
Độc quyền nhóm mua trong tiếng Anh là Oligopsony.
Ví dụ cụ thể về độc quyền nhóm mua:
Thị trường ca cao chính là một ví dụ khác của độc quyền nhóm mua. Ba công ty Cargill, Archer Daniels Midland và Barry Callebaut mua phần lớn sản lượng hạt ca cao trên thế giới, họ mua chủ yếu từ các nông dân ở các nước thế giới thứ ba.
Một ví dụ cụ thể khác là những người trồng cây thuốc lá ở Mỹ cũng phải chịu sự kiểm soát của một nhóm các nhà sản xuất thuốc lá, trong đó ba công ty Altria, Brown & Williamson và Lorillard mua gần 90% tất cả sản lượng thuốc lá được trồng ở Mỹ cũng như thuốc lá được trồng ở các nước khác.
Trong ngành xuất bản Mỹ, có năm nhà xuất bản được gọi là Big Five và họ chiếm khoảng hai phần ba tất cả sách được xuất bản mỗi năm. Mỗi gã khổng lồ xuất bản này sở hữu một loạt các ấn hiệu chuyên biệt phục vụ cho các phân khúc thị trường khác nhau. Ấn hiệu khác nhau này tạo ra ảo tưởng rằng có nhiều nhà xuất bản trên thị trường.
Mỗi ấn hiệu trong mỗi chủ thể là nhà xuất bản phối hợp với nhau để nhằm mục đích có thể ngăn chặn việc cạnh tranh nội bộ khi tìm cách mua sách mới từ các tác giả.
Đây cũng chính là một dạng độc quyền nhóm mua, sự độc quyền này gây áp lực làm giảm các khoản trả trước cho các tác giả và tạo áp lực khiến các tác giả phải phục vụ thị hiếu của các nhà xuất bản, cuối cùng làm giảm sự đa dạng trong các tác phẩm được xuất bản.
Một mặt khác, chúng ta cũng cần xem xét các siêu thị lớn tại các nền kinh tế đang phát triển trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ảnh hưởng của họ đối với các nhà cung cấp thực phẩm càng ngày càng tăng, họ có thể quyết định một số thực phẩm được trồng hay cách chế biến và đóng gói của nhà cung cấp.
Tác động của độc quyền nhóm mua của các siêu thị lớn ăn sâu vào cuộc sống và sinh kế của những chủ thể là những người làm nông nghiệp trên khắp thế giới. Vì sự tăng trưởng thị phần của các chủ thể là những người tiêu dùng của họ, các hệ thống siêu thị lớn đã khiến nhiều chủ thể là những nhà cung cấp không thể cạnh tranh phải rời bỏ kinh doanh. Điều này cũng đã dẫn đến các cáo buộc lạm dụng, hay các hành vi phi đạo đức và bất hợp pháp ở một số quốc gia.
2.2. Độc quyền nhóm mua và độc quyền nhóm bán:
Ngược lại với độc quyền nhóm mua, khi xảy ra tình trạng độc quyền nhóm bán, các chủ thể là những người bán thường tham gia vào cuộc chiến giá cả để nhằm mục đích có thể lôi kéo người mua, khiến mức giá giảm xuống và tăng sản lượng một cách hiệu quả.
Độc quyền nhóm mua còn được gọi là cuộc đua xuống đáy. Đây được hiểu cơ bản là hiện tượng khi người bán mất tất cả các quyền lực trước đây họ có trong cung và cầu.
Ta hiểu về cuộc đua xuống đáy như sau:
Cuộc đua xuống đáy trong tiếng Anh là Race to the Bottom.
Cuộc đua xuống đáy chính là chỉ việc một công ty, một tiểu bang hoặc quốc gia cố gắng giảm giá thấp hơn giá của đối thủ bằng cách hi sinh chất lượng, hoặc an toàn của người lao động, hoặc trả lương thấp.
Một cuộc đua xuống đáy cũng có thể xảy ra giữa các vùng. Ví dụ cụ thể như một tỉnh hoặc thành phố có thể nới lỏng quy định và thỏa hiệp các lợi ích công cộng để thu hút đầu tư, ví dụ như xây dựng một nhà máy hoặc văn phòng công ty mới.
Thuật ngữ cuộc đua xuống đáy cũng được sử dụng nhằm mục đích đó là để mô tả sự cạnh tranh vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức và gây hại cho các bên liên quan.
Cuộc đua xuống đáy cũng chính là kết quả của sự cạnh tranh khốc liệt. Khi các công ty tham gia vào cuộc đua xuống đáy, tác động của nó cũng đã vượt ra ngoài các bên liên quan trực tiếp, gây ra thiệt hại lâu dài lên môi trường, nhân viên, cộng đồng và các cổ đông của công ty.
Hơn nữa, kì vọng của các chủ thể là những người tiêu dùng về mức giá thấp hơn có thể khiến tỉ suất lợi nhuận của bên thắng cuộc vĩnh viễn ở mức thấp. Nếu các chủ thể là những người tiêu dùng thấy hàng hóa hoặc dịch vụ kém chất lượng do kết quả cắt giảm chi phí trong cuộc đua xuống đáy, thị trường cho những hàng hóa hoặc dịch vụ đó cũng có thể biến mất trong thực tiễn.