Trong giao tiếp khi nhắc tới về các công việc mang tính kinh doanh, cung cấp dịch vụ, mua bán sản phẩm cho khách hàng, người sử dụng dịch vụ không thể không nhắc đến cụm từ doanh thu. Doanh thu chính là một chỉ số tài chính đặc biệt quan trọng khi đánh giá hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Vậy Doanh thu trung bình trên một khách hàng là gì? Liên hệ thực tiễn?
Mục lục bài viết
1. Doanh thu trung bình trên một khách hàng là gì?
Định nghĩa doanh thu trung bình trên một khách hàng:
Doanh thu trung bình trên một khách hàng hay chúng ta còn có thể gọi là doanh thu trùng bình trên một người dùng.
Thuật ngữ doanh thu trung bình trên một khách hàng (ARPU) đã thữ hiện việc đo lường doanh thu được tạo ra trên mỗi khách hàng (người dùng) hoặc đơn vị (thuê bao).
Doanh thu trung bình trên một khách hàng cũng không dựa trên các nguyên tắc kế toán chấp nhận chung (GAAP), điều này cho phép các chủ thể là những nhà quản lí và những nhà đầu tư tinh chỉnh phân tích về khả năng tạo doanh thu và tăng trưởng của công ty ở cấp độ mỗi khách hàng.
Doanh thu trung bình trên một khách hàng cũng chính là giá trị dùng để nhằm mục đích có thể đánh giá sự thành công của một mạng viễn thông di động, hay còn gọi là chỉ số doanh thu bình quân của một thuê bao/tháng; Doanh thu trung bình trên một khách hàng là chỉ số dùng để đánh giá tính hiệu quả của các nhà khai thác, cung cấp dịch vụ viễn thông.
Doanh thu trung bình trên một khách hàng hay doanh thu trùng bình trên một người dùng trong tiếng Anh là gì?
Doanh thu trung bình trên một khách hàng hay doanh thu trùng bình trên một người dùng trong tiếng Anh là Average Revenue Per User, viết tắt: ARPU.
2. Xác định doanh thu trung bình trên một khách hàng (ARPU):
Doanh thu trung bình trên một khách hàng (ARPU) = Tổng doanh thu ÷ Số người dùng trung bình trong một khoảng thời gian.
Chúng ta cũng cần phải lưu ý rằng: Không thể lấy mẫu số là số người dùng (khách hàng) vào thời điểm kết thúc (thời điểm cuối kì) để nhằm mục đích có thể đại diện cho số người dùng trong khoảng thời gian đó. Thay vào đó, chúng ta sẽ có thể tính toán giá trị trung bình giữa thời điểm giữa đầu kì và cuối kì. Giá trị trung bình có trọng số cũng có thể được sử dụng nếu thích hợp trong các hoàn cảnh cụ thể.
Liên hệ thực tế:
– Doanh thu trung bình trên một khách hàng đã được sử dụng trong lĩnh vực viễn thông của Verizon, AT&T và các công ty khác để nhằm mục đích có thể theo dõi lượng doanh thu được tạo ra cho mỗi người dùng điện thoại di động. Các công ty truyền hình cáp như Comcast cũng tiết lộ số liệu về doanh thu trung bình trên một khách hàng.
– Các giá trị sau khi tính toán có thể được sử dụng để so sánh giữa các công ty dựa trên thuê bao và để hỗ trợ dự báo doanh thu dịch vụ trong tương lai được tạo ra từ cơ sở khách hàng.
– Các công ty truyền thông xã hội tương đối mới trên thị trường ví dụ cụ thể như Facebook và Snap, mặc dù doanh thu của các công ty này không dựa trên thuê bao như các công ty kể trên, vẫn báo cáo số doanh thu trung bình trên một khách hàng cho các chủ thể là những nhà đầu tư. Doanh thu trung bình của Facebook trên mỗi người dùng trong quý 3 năm 2017 là 5,07 đô la, trong khi ARPU của Snap là 1,17 đô la.
Đánh giá về doanh thu trung bình trên một khách hàng:
– Doanh thu trung bình trên một khách hàng chính là một biện pháp lâu đời và rất hữu ích cho các chủ thể là những nhà quản lí và phân tích. Tuy nhiên, hạn chế của doanh thu trung bình trên một khách hàng là bản thân nó không cung cấp thông tin chi tiết về cơ sở người dùng. Doanh thu trung bình trên một khách hàng chỉ là một biện pháp ở cấp vĩ mô.
– Chẳng hạn như trên Facebook, có thể có hàng chục hoặc hàng trăm triệu người đăng kí làm người dùng nhưng một bộ phận trong số đó là những tài khoản rác hay là nick ảo mà hiếm khi hoặc thậm chí không bao giờ truy cập hay tham gia vào nền tảng. Do đó, con số doanh thu trung bình trên một khách hàng thực sự có thể bị bóp méo.
3. Hạn chế của doanh thu trung bình trên một khách hàng:
Hiện nay, chỉ số doanh thu trung bình trên một khách hàng cũng đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế để đánh giá sự thành công của một mạng viễn thông di động; trong đó có quá nhiều yếu tố làm cho doanh thu trung bình trên một khách hàng không còn phản ánh đúng khả năng thực sự của một mạng, cụ thể đó là:
– Dùng nhiều thẻ SIM:
+ Bởi vì chính sách khuyến mại của các Hãng Viễn thông di động, nên có nhiều khách hàng thường sử dụng nhiều thẻ SIM đồng thời. Nguyên nhân là việc sử dụng một thẻ SIM mới có khuyến mãi thì sẽ tiết kiệm hơn là dùng SIM cũ, và khách hàng thuê bao không muốn bỏ đi số điện thoại cũ. Những chủ thể là những người dùng nghiêm túc hơn cũng sử dụng nhiều SIM, mỗi SIM cho một dịch vụ khác nhau.
Bên cạnh đó, không nhất thiết thẻ SIM đi kèm với điện thoại: thẻ Internet 3G cho máy tính xách tay cũng dùng SIM. Và lúc đó, doanh thu trung bình trên một khách hàng của một khách hàng sẽ được chia ra trên nhiều thẻ SIM; như vậy, tổng doanh thu có thể tăng, nhưng ARPU lại thấp hơn những mạng cung cấp ít dịch vụ hơn và khách hàng dùng ít thẻ SIM hơn. Chính vì vậy mà rất khó biết được hai thẻ SIM khác nhau là của cùng một khách hàng.
– Trợ giá và trả trước.
– Nhiều dịch vụ khác nhau.