Định giá tắc nghẽn đề cập đến một chiến lược giá năng động được thiết kế để điều chỉnh nhu cầu bằng cách tăng giá mà không làm tăng cung. Ví dụ và các kiểu định giá tắc nghẽn?
Trên thị trường thương mại thì giá trị cũng và giá trị cầu phải đáp ứng và tương tích với nhau. Do đó mà khi nhu cầu tăng thì việc cung ứng trên thị trường cũng phải tăng theo. Tuy nhiên, có một số trường hợp thì khi cầu tăng những thay vào việc phải tăng cũng thì các nhà kinh doanh đã chọn việc tăng giá để thay thế. Và hoạt động này được gọi chung đó là định giá tắc nghẽn.
Mục lục bài viết
1. Định giá tắc nghẽn là gì?
Thuật ngữ “định giá tắc nghẽn” đề cập đến một chiến lược giá năng động được thiết kế để điều chỉnh nhu cầu bằng cách tăng giá mà không làm tăng cung. Chiến lược dựa trên lý thuyết kinh tế về giá cả, là một mưu đồ phổ biến trong ngành giao thông vận tải, nhằm mục đích giảm tắc nghẽn và ô nhiễm không khí bằng cách thu phí nhiều hơn khi đi vào các khu vực đặc biệt tắc nghẽn của một thành phố đô thị lớn.
Định giá tắc nghẽn cũng được sử dụng trong ngành khách sạn và lĩnh vực tiện ích, trong đó nhu cầu thay đổi tùy thuộc vào thời gian trong ngày hoặc mùa trong năm. Giá điện có thể cao hơn vào những tháng ấm hơn vì có máy lạnh, trong khi giá phòng khách sạn có thể đắt hơn trong những ngày lễ lớn.
Định giá tắc nghẽn thường áp dụng việc tăng giá đối với các dịch vụ có nhu cầu tăng tạm thời hoặc theo chu kỳ. Đây là một chiến lược phổ biến trong các ngành vận tải, du lịch, khách sạn và tiện ích. Định giá tắc nghẽn bao gồm định giá theo nhu cầu hoặc định giá tăng, định giá theo phân đoạn và định giá dành cho người dùng cao điểm. Ý tưởng đằng sau việc định giá tắc nghẽn là người tiêu dùng sẽ sử dụng và lãng phí tài nguyên miễn phí hoặc có giá không đáng kể hơn là tài nguyên đắt tiền. Định giá tắc nghẽn có thể làm tăng doanh thu, nhưng chi phí liên quan có thể cao.
Định giá tắc nghẽn, còn được gọi là định giá “đột biến” hoặc “giá trị”, thêm phụ phí cho các dịch vụ có nhu cầu tăng tạm thời hoặc theo chu kỳ. Nó có nghĩa là để khuyến khích những người dùng có thể linh hoạt với việc sử dụng của họ để chuyển từ thời kỳ cao điểm sang thời điểm khi dịch vụ hoặc tài nguyên ít tốn kém hơn.
Như đã đề cập ở trên, nó thường được sử dụng như một cách để hạn chế giao thông nhằm giảm ùn tắc trên đường và cải thiện chất lượng không khí. Ngành du lịch và lữ hành cũng sử dụng hình thức định giá này trong thời gian cao điểm du lịch. Các công ty tiện ích cũng tính phí sử dụng cao hơn vào thời gian cao điểm.
Mục đích là để điều chỉnh lượng cầu dư thừa bằng cách áp dụng mức giá cao hơn trong các chu kỳ nhu cầu cao điểm. Ví dụ, các dịch vụ xe hơi tăng giá vào đêm giao thừa vì nhu cầu đi xe cao. Các khách sạn tăng giá phòng trong các dịp đại hội, các ngày lễ lớn, hoặc các sự kiện đặc biệt. Giá điện có thể cao hơn vào mùa hè do việc sử dụng máy điều hòa không khí tăng lên.
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel William Vickrey lần đầu tiên đề xuất bổ sung hệ thống giá vé theo khoảng cách hoặc thời gian để quản lý tắc nghẽn trên tàu điện ngầm ở Thành phố New York vào năm 1952, mặc dù nó không được thông qua, một phần do công nghệ không phù hợp. Đây là lý do tại sao Vickrey được coi là cha đẻ của định giá tắc nghẽn. Maurice Allais, một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel khác, đã giải thích cặn kẽ về lý thuyết định giá tắc nghẽn để quản lý tắc nghẽn giao thông. Ông là người có công trong việc thiết kế hệ thống định giá đường bộ đầu tiên: Đề án Cấp phép Khu vực Singapore, được thực hiện vào năm 1975.
Định giá ùn tắc được coi là một giải pháp từ phía cầu để điều tiết lưu lượng do kinh tế thị trường thúc đẩy. Tính giá cao hơn có nghĩa là để người dùng nhận thức được hậu quả (tăng tắc nghẽn) mà họ áp đặt lên những người khác khi họ sử dụng tài nguyên trong thời gian cao điểm nhu cầu. Lý thuyết cho rằng người tiêu dùng sẽ sử dụng và lãng phí nhiều tài nguyên miễn phí hoặc có giá không đáng kể so với tài nguyên đắt tiền. Bằng cách tăng giá của một tài nguyên, người dùng sẵn sàng trả tiền cho tài nguyên đó khiến tài nguyên đó trở nên khan hiếm hơn.
Hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý về tính khả thi về kinh tế của một số hình thức định giá đường để giảm ùn tắc giao thông, và định giá ùn tắc đã có hiệu quả ở các khu vực đô thị đã áp dụng kế hoạch này. Tuy nhiên, không phải ai cũng coi đó là một chiến lược công bằng. Những người chỉ trích nói rằng nó dẫn đến gánh nặng kinh tế mà các cộng đồng tiếp giáp với các khu vực giao thông tắc nghẽn phải đối mặt. Một chỉ trích khác về giá tắc nghẽn là nó có thể gây hại cho người dùng có thu nhập thấp hơn các nhóm nhân khẩu học khác, giống như hệ thống thuế lũy thoái đã làm.
2. Ví dụ và các kiểu định giá tắc nghẽn:
Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định giao thông vận tải chia nhỏ hơn nữa các kiểu định giá tắc nghẽn dựa trên chức năng.
– Định giá động, cao điểm hoặc tăng đột biến
Định giá động là một chiến lược định giá tắc nghẽn trong đó giá không được đặt chắc chắn. Thay vào đó, nó dao động dựa trên những hoàn cảnh thay đổi, chẳng hạn như sự gia tăng nhu cầu tại một số thời điểm nhất định, loại khách hàng đang được nhắm mục tiêu hoặc điều kiện thị trường đang phát triển. và các ngành du lịch.
– Định giá theo phân đoạn
Cấu trúc này tính phí khách hàng dựa trên mức độ sẵn sàng trả nhiều hơn của họ cho một dịch vụ nhất định. Một số có thể sẵn sàng trả phí bảo hiểm để có dịch vụ nhanh hơn, chất lượng cao hơn hoặc các tính năng bổ sung, chẳng hạn như tiện nghi.
Ví dụ: một nhà cung cấp có thể cung cấp một sản phẩm không có bảo hành với mức giá thấp, nhưng nếu bạn muốn có cùng một sản phẩm với một bảo hành, sau đó bạn phải trả một mức giá cao hơn. Hoặc khách doanh nhân có thể sẵn sàng trả giá cao hơn cho một vé máy bay cho phép họ bay vào giữa tuần. Ở Broadway, khán giả có thể mua vé cao cấp đắt hơn giá niêm yết rất nhiều. Tuy nhiên, nếu những chiếc ghế cao cấp đó vẫn chưa bán được gần ngày chiếu, bất cứ nơi nào trong vòng một tuần đến một ngày trước buổi biểu diễn, chúng sẽ được phòng vé “giải phóng” và có sẵn với giá tiêu chuẩn.
– Đặt giá cao nhất cho người dùng
Giá cao điểm cho người dùng, còn được gọi là giá “tải cao điểm” hoặc “thời gian sử dụng”, dựa trên thời gian đi lại cao điểm và phổ biến trong vận chuyển.
Ví dụ: các công ty hàng không và xe lửa thường tính giá cao hơn để đi vào giờ cao điểm từ Thứ Hai đến Thứ Sáu hơn những thời điểm khác. Họ cũng có thể có các mức giá khác nhau cho các ngày cuối tuần hoặc một chuyến đi bao gồm một ngày trong tuần cộng với một ngày cuối tuần. Các công ty tiện ích cũng định giá dựa trên thời gian cao điểm. Họ có thể tính phí cao hơn cho các cuộc gọi điện thoại được thực hiện từ 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Với việc định giá tắc nghẽn, các công ty nắm giữ quyền lực vì nhu cầu về một dịch vụ không bị ảnh hưởng bởi việc tăng giá.
Ưu điểm và nhược điểm của định giá tắc nghẽn
– Thuận lợi
Lợi ích rõ ràng nhất của việc thực hiện định giá ùn tắc là nó kiểm soát tình trạng ùn tắc trên các tuyến đường, do đó giảm bớt căng thẳng và chậm trễ. Nếu người lái xe bị tính thêm phí cầu đường để vào một số khu vực nhất định của thành phố, thì họ sẽ ít có khả năng sử dụng ô tô riêng trên đường và thay vào đó có thể chuyển sang sử dụng phương tiện giao thông công cộng.
Tương tự, các công ty tiện ích có thể hạn chế sử dụng trong thời gian cao điểm cho các dịch vụ chẳng hạn như nước và điện. Giá cao hơn dẫn đến tăng doanh thu. Tiền thu được từ phí cầu đường có thể được sử dụng để cải thiện đường bộ và giao thông công cộng, mang lại cho người đi làm các lựa chọn khác để di chuyển đến và đi từ thành phố.
Các công ty tham gia vào hoạt động chia sẻ xe và du lịch có thể thấy lợi nhuận của họ tăng lên. Định giá tắc nghẽn giúp giảm thiểu ô nhiễm và tiêu thụ năng lượng. Kéo ô tô ra khỏi đường có nghĩa là ít khói thải hơn. Việc sạc điện nhiều hơn khi nguồn lực đã bị căng thẳng trong thời gian cao điểm có thể ảnh hưởng đến việc người tiêu dùng phân tán việc sử dụng của họ sang những thời điểm khác.
– Nhược điểm
Những người chỉ trích việc định giá tắc nghẽn cho rằng nó gây gánh nặng cho những người lái xe và có thể ảnh hưởng về mặt tài chính đối với những người có thu nhập thấp hơn những người khác. Cũng giống như thuế lũy thoái, định giá tắc nghẽn cuối cùng sẽ lấy đi nhiều thu nhập của họ hơn so với những người có thu nhập cao hơn.
Bởi vì giá cả tắc nghẽn không khuyến khích mọi người tham gia các hoạt động như lái xe, nó có thể gây tổn hại cho các doanh nghiệp ở một số khu vực của thành phố. Đó là vì phương tiện công cộng có thể không phải là một lựa chọn cho một số người. Nếu họ buộc phải trả nhiều tiền hơn để sử dụng phương tiện của riêng mình, thì họ có thể chọn không đi vào những khu vực đó và thay vào đó là mua sắm ở những nơi khác.
Mặc dù nó có thể làm tăng doanh thu, nhưng chi phí để giám sát và quản lý các kế hoạch định giá tắc nghẽn có thể rất lớn. Các nhà chức trách có thể cần phải trả tiền cho công nghệ mới và tiền lương cho công nhân mới, chưa kể đến việc lập hóa đơn và các cách khác để quy trách nhiệm cho những người trốn tránh thanh toán.