Định giá trong Kế toán là gì? Các mô hình định giá trong kế toán? Định giá bảo hiểm so với định giá kế toán?
Báo cáo tài chính là một nghĩa vụ mà các quốc gia yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Để thực hiện xây dựng nên bảo báo cảo tài chính đầy đủ và chính xác, thì các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp định giá kế toán. Định giá kế toán hướng tới việc tính toán tại tổng tài sản cũng như các khoản nợ của công ty.
Mục lục bài viết
1. Định giá trong Kế toán là gì?
Định giá kế toán là việc định giá tài sản và nợ phải trả của công ty nhằm mục đích báo cáo tài chính. Các tài sản thuộc sở hữu của một công ty và các khoản nợ phải trả tích lũy trong một thời gian nhất định phải được định giá một cách chính xác và được đưa vào bảng cân đối kế toán của công ty khi lập báo cáo tài chính. Có nhiều phương pháp đánh giá tài sản và nợ phải trả của một công ty và chúng đều quan trọng đối với việc lập báo cáo tài chính của công ty.
Định giá trong kế toán là một thủ tục phổ biến được sử dụng để xác định giá trị của một tài sản cho mục đích báo cáo tài chính. Nhìn chung, đây có vẻ là một nhiệm vụ tương đối đơn giản, nhưng đánh giá giá trị hiện tại (PV) của một số loại tài sản nhất định có thể yêu cầu các tính toán nâng cao và hiểu biết thấu đáo các quy định hiện hành. Như với hầu hết các thông lệ kế toán doanh nghiệp, có các tiêu chuẩn và quy định được thiết lập nhằm xác định cách xác định và báo cáo giá trị. Tuy nhiên, kế toán thực hiện việc xác định giá trị có một số phương pháp riêng biệt mà họ có thể sử dụng tùy theo nhu cầu của tình hình.
Có nhiều lý do để một cá nhân hoặc doanh nghiệp yêu cầu định giá kế toán cho một số hoặc tất cả tài sản của họ. Doanh nghiệp lớn hơn tiến hành định giá rộng rãi trong quá trình sáp nhập hoặc mua lại để đảm bảo rằng các con số được sử dụng trong hợp đồng là chính xác. Việc xác định giá trị tài sản của một cá nhân cũng cần thiết khi phân chia tài sản cho những người được hưởng theo di chúc hoặc trong khi giải quyết ly hôn. Nó cũng có thể cần thiết đối với những người bị yêu cầu tịch thu tài sản do khiếu kiện dân sự hoặc là một phần của thủ tục phá sản.
Doanh nghiệp có thể cần định giá toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình trong trường hợp sáp nhập hoặc mua lại hoặc để đưa ra quyết định kinh doanh sáng suốt về giá trị của từng bộ phận kinh doanh trước khi thực hiện tái cơ cấu. Bài tập định giá liên quan đến việc biết giá trị vượt ra ngoài các tài sản hữu hình truyền thống để bao gồm tài sản trí tuệ, mối quan hệ khách hàng và nhà cung cấp và bí quyết.
Tính chính xác của giá trị tài sản mà một công ty nắm giữ là rất quan trọng, đặc biệt là đối với mục đích lập báo cáo tài chính. Trong kế toán, các phương pháp định giá đa dạng tồn tại, ví dụ, mô hình quyền chọn được chấp nhận và mô hình giá tài sản là một số trong các phương pháp định giá. Việc định giá tài sản cũng phụ thuộc vào loại tài sản được định giá. Ví dụ, việc định giá tài sản cố định dựa trên giá lịch sử trong khi tài sản thị trường được định giá theo giá thị trường hiện tại. Tuy nhiên, chỉ riêng việc định giá là chưa đủ cho việc lập báo cáo tài chính, việc phân tích định giá cũng rất quan trọng. Việc định giá tài sản và nợ phải trả của công ty có thể được thực hiện hàng quý, hàng tháng hoặc hàng năm. Thông tin được cung cấp được sử dụng để lập các báo cáo tài chính.
2. Các mô hình định giá trong kế toán:
Dòng tiền chiết khấu: Mô hình chiết khấu dòng tiền (DCF) tập trung vào việc tính toán giá trị nội tại của tài sản để xác định dòng tiền trong tương lai của một tổ chức. Đây là phương pháp toàn diện nhất trong ba phương pháp định giá chính và đòi hỏi một lượng lớn nghiên cứu, phân tích và dữ liệu. Thực hành kế toán DCF được đặc trưng bởi việc giảm giá trị tương lai để xác lập giá trị hiện tại. Kế toán sử dụng phương pháp này chiết khấu giá trị của tài sản dựa trên các yếu tố hiện tại và tương lai, bao gồm cả các yếu tố rủi ro có thể làm giảm giá trị tổng thể của nó.
Giá trị tương đối: Kế toán cũng có thể sử dụng mô hình định giá tương đối xác định giá trị của công ty hoặc tài sản dựa trên giá của các lựa chọn thay thế có thể so sánh được. Các nhà đầu tư tiềm năng có thể sử dụng mô hình này để đánh giá một số công ty khác nhau nhằm tìm ra công ty có giá trị tương đối cao nhất. Phương pháp này cũng có thể được sử dụng để tính toán ước tính giá trị thị trường của một phần tài sản hoặc công cụ tài chính cụ thể. Trong nhiều trường hợp, các mô hình giá trị tương đối được sử dụng cùng với các phương pháp toàn diện hơn khi định giá công ty.
Định giá tùy chọn: Định giá quyền chọn, còn được gọi là định giá xác nhận quyền sở hữu theo châu lục, thường được sử dụng để tìm giá trị của các khoản tài chính cụ thể. Nó đặc biệt hữu ích để xác định giá trị của tài sản dài hạn, như quyền chọn cổ phiếu và chứng khoán. Thực tế có một số loại mô hình định giá quyền chọn khác nhau hiện đang được sử dụng, bao gồm cả mô hình Black-Scholes-Merton và mô hình mạng. Hiệp hội Kế toán Chuyên nghiệp được Chứng nhận Quốc tế (AICPA) cung cấp các hướng dẫn chi tiết về định giá quyền chọn và các phương pháp định giá khác cho các chuyên gia kế toán.
Đánh giá giá trị của các hợp đồng, tài sản và các công cụ tài chính không phải là một nhiệm vụ đơn giản. Đối với các nhà đầu tư hoặc công ty thực hiện các đánh giá này, độ chính xác của kết quả có thể có tác động lớn đến sự thành công lâu dài của các dự án tài chính của họ. Hiểu được sự phức tạp của việc xác định giá trị trong kế toán là điều cần thiết đối với bất kỳ kế toán viên được chứng nhận nào, nhưng việc làm quen với các nguyên tắc cơ bản đằng sau các phương pháp này là một kỹ năng hữu ích cho các loại chuyên gia tài chính hoặc kinh doanh.
Trong kế toán, tài khoản định giá thường là tài khoản bảng cân đối kế toán được sử dụng kết hợp với một tài khoản bảng cân đối kế toán khác để báo cáo giá trị ghi sổ của một tài sản hoặc nợ phải trả.
Một ví dụ về tài khoản định giá được liên kết với tài sản là Khoản dự phòng cho Tài khoản Nghi ngờ. Số dư có của tài khoản này sẽ được kết hợp với số dư bên Nợ trong Tài khoản Phải thu để báo cáo giá trị ghi sổ của các khoản phải thu của công ty. Các tài khoản định giá khác bao gồm Chiết khấu các khoản phải thu, Khấu hao lũy kế và các tài khoản dự phòng được sử dụng với hàng tồn kho và các khoản đầu tư.
Hai ví dụ về tài khoản định giá liên quan đến nợ phải trả là Chi phí phát hành trái phiếu và Chiết khấu trái phiếu phải trả. Số dư Nợ trong các tài khoản định giá này sẽ được kết hợp với số dư Có trong Trái phiếu Phải trả để báo cáo giá trị ghi sổ của trái phiếu. Phí bảo hiểm trên trái phiếu Phải trả là tài khoản định giá có số dư có.
3. Định giá bảo hiểm so với định giá kế toán:
Định giá trong bảo hiểm hay định giá tính toán, là một phân tích toán học được thực hiện bằng cách sử dụng các đầu vào và giả định khác nhau để ước tính một khoản nợ hoặc tài sản trong tương lai tại một thời điểm khác nhau, thường là vào ngày cuối năm của công ty. Ví dụ như thiết lập trách nhiệm của một kế hoạch hưu trí phúc lợi xác định hoặc trợ cấp sau khi nghỉ hưu khác, một khoản bồi thường cho người lao động tự tài trợ hoặc kế hoạch bảo hiểm sơ suất. Các giả định được sử dụng thường bắt nguồn từ dữ liệu dài hạn và dựa trên sự kết hợp giữa thông tin thống kê và kinh nghiệm trước đó. Các nhà tính toán chuyên nghiệp nên tham gia để hỗ trợ các công ty thực hiện phân tích này.
Mục đích của định giá tính toán là để tính toán ‘giá trị hiện tại’ của các khoản thanh toán sẽ được thực hiện cho nhân viên trong tương lai như một phần của kế hoạch phúc lợi cho nhân viên. Trong bảo hiểm thì đó chính là việc tính toán cho hưu trí.
Các nhà nghiên cứu tính toán bắt đầu bằng cách đưa ra các giả định về tỷ lệ tăng lương, tỷ lệ tiêu hao và tử vong trong tương lai. Sau đó, các giả định được sử dụng để dự đoán các khoản thanh toán phúc lợi sẽ do người sử dụng lao động trả cho nhân viên của mình, theo các quy tắc của kế hoạch.
Các nhà tính toán chọn một giả định khác được gọi là tỷ lệ chiết khấu, để chuyển các khoản thanh toán trong tương lai thành giá trị hiện tại. Đây là khoản nợ phải trả mà bạn cần phải trình bày trong báo cáo tài chính của mình. Định giá tính toán thường không chỉ bao gồm ước tính trách nhiệm pháp lý mà còn bao gồm các thông tin tiết lộ mở rộng dưới dạng báo cáo tính toán.
Có thể thấy việc định giá trong bảo hiểm với bản chất là định giá tính toán là việc hoàn toàn khác so với định giá kế toán. Nếu như định giá kế toán có đối tượng chính đó chính là tài sản của doanh nghiệp thì đối tượng của định giá bảo hiểm đó chính là quỹ hưu trí của bảo hiểm.